Bài thơ “Bạch Đằng Hải Khẩu” là một tác phẩm đặc sắc, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông Bạch Đằng và gợi nhớ những chiến công hiển hách của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà còn là một khúc tráng ca về lịch sử, về những người anh hùng đã làm nên những trang sử vàng chói lọi.
Cảnh báo: Biểu tượng chứng nhận đồng, cho thấy bài viết đã được đánh giá và công nhận về chất lượng.
白藤海口
朔風吹海氣凌凌,
輕起吟帆過白藤。
鱷斷鯨刳山曲曲,
戈沉戟折岸層層。
關河百二由天設,
豪傑功名此地曾。
往事回頭嗟已矣,
臨流撫影意難勝。
Bạch Đằng hải khẩu
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.
Ngạc đoạn kình khô sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
Dịch nghĩa
Cửa biển lồng lộng, gió bấc thổi băng băng;
Buồm thơ nhẹ lướt qua sông Bạch Đằng.
Nhìn núi từng khúc, như cá mập, cá sấu bị chặt từng đoạn,
Nhìn bờ từng lốp, như giáo kích gươm đao bị gãy chìm.
Cảnh núi sông hiểm yếu, tạo ra cái thế “lấy ít địch nhiều”,
Đây là nơi hào kiệt từng lập nên công danh oanh liệt.
Việc xưa nghĩ lại, ôi tất cả đã qua rồi!
Tới đây viếng cảnh, nỗi lòng sao biết nên chăng?
Biểu tượng chứng nhận đồng khẳng định giá trị văn chương của bài thơ Bạch Đằng Hải Khẩu.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh gió bấc thổi mạnh trên cửa biển, tạo nên một không khí lồng lộng, dữ dội. Con thuyền thơ nhẹ nhàng lướt trên sông Bạch Đằng, mở ra một không gian bao la, hùng vĩ.
“Ngạc đoạn kình khô sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.”
Hai câu thơ tả cảnh đặc sắc, gợi hình ảnh những ngọn núi bị xẻ thành từng khúc, những bờ đá lởm chởm như giáo gươm gãy vụn. Những hình ảnh này không chỉ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên mà còn gợi nhớ đến những trận chiến ác liệt đã từng diễn ra trên dòng sông này.
Ảnh chứng nhận: Biểu tượng đồng nhấn mạnh giá trị lịch sử và văn hóa của Bạch Đằng Hải Khẩu.
“Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.”
Sông Bạch Đằng với địa thế hiểm yếu, được ví như một pháo đài tự nhiên, đã trở thành nơi ghi dấu những chiến công hiển hách của dân tộc. Nơi đây, những người anh hùng đã lập nên những kỳ tích, làm rạng danh non sông.
“Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.”
Khi hồi tưởng về quá khứ, tác giả không khỏi ngậm ngùi, tiếc nuối. Dòng sông vẫn còn đó, nhưng những chiến công, những người anh hùng đã trở thành dĩ vãng. Tác giả đứng trước dòng sông,抚影 (phủ ảnh) – tự thương cho mình, tự thương cho đời.
Bài thơ “Bạch Đằng Hải Khẩu” không chỉ là một bài thơ tả cảnh mà còn là một bài thơ trữ tình sâu sắc. Tác phẩm thể hiện niềm tự hào về lịch sử, về những chiến công oanh liệt của dân tộc, đồng thời cũng thể hiện nỗi ngậm ngùi, tiếc nuối về những gì đã qua. “Bạch Đằng Hải Khẩu” xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất về dòng sông Bạch Đằng lịch sử.