Tác Phẩm Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi Là Của Ai?

Ngày 11/6 vừa qua, sự ra đi của ông Tạ Quang Chiến, người cận vệ cuối cùng mang tên trong nhóm 8 cận vệ “Trường/ Kỳ /Kháng /Chiến /Nhất/ Định /Thắng/ Lợi” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt (hưởng thọ 98 tuổi), đã khép lại một thế hệ cận vệ đặc biệt. Câu chuyện về 8 con người này, với ý nghĩa sâu sắc từ các tên gọi được ghép lại, cùng trách nhiệm to lớn khi được tin tưởng bảo vệ Bác Hồ, vẫn còn được nhắc đến nhiều.

Hồi ức về những năm tháng gian khó của đất nước

Trong những năm tháng cuối đời, ông Nguyễn Hữu Văn, người mang tên Chiến do Bác Hồ đặt, vẫn luôn nhớ về những ký ức của một thời đất nước còn nhiều nguy nan. Được đi theo Bác lên Chiến khu Việt Bắc, ông cảm thấy vinh dự và nhận thức rõ trách nhiệm lớn lao của mình. Dù khó khăn gian khổ, được làm việc bên cạnh Bác Hồ là một niềm hạnh phúc lớn lao.

Tháng 12/1946, sau khi Bác Hồ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người cùng Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành đã rời Hà Nội để lên Chiến khu Việt Bắc. Theo chỉ thị của Trung ương, Tổ Cận vệ bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh hành quân trở lại Chiến khu Việt Bắc. Cùng đi với Bác là một bộ phận gọn nhẹ gồm 8 cận vệ: Võ Chương, Vũ Long Chuẩn, Nguyễn Văn Lý, Văn Lâm, Ngọc Hà, Nguyễn Quang Chí, Trần Đình và Nguyễn Hữu Văn.

Dù là cận vệ của Bác, nhưng Tổ Cận vệ thực hiện nhiều công việc khác nhau như cảnh vệ, công tác văn phòng, liên lạc và hậu cần. Phương châm đặt ra là mỗi người phải thạo nhiều việc, nhưng bảo vệ Bác vẫn là nhiệm vụ quan trọng nhất.

Đầu tháng 3/1947, Bác Hồ cùng mọi người đến xã Cổ Tiết, Tam Nông, Phú Thọ. Sáng ngày 06/3/1947, Bác gọi tám người anh em lại để bàn bạc. Bác thấu hiểu tình hình và hoàn cảnh lúc bấy giờ, dù khó khăn nhưng vẫn mong muốn mọi người cố gắng hết sức. Sau khi căn dặn công việc, phân công nhiệm vụ và nhắc nhở giữ bí mật, Bác đưa ra ý tưởng đặt tên cho tám người.

Bác nói, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta mới bắt đầu và còn lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định sẽ thắng lợi. Từ hôm nay, để thể hiện quyết tâm kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và cũng là để giữ bí mật, Bác đặt tên cho các chú là Trường – Kỳ – Kháng – Chiến – Nhất – Định – Thắng – Lợi. Bác chỉ vào từng người đang quây quần bên cạnh và đặt tên theo thứ tự vòng tròn lúc đó.

“Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” – một lời khẳng định, một quyết tâm lớn lao vì vận mệnh đất nước từ Bác, đồng thời là một cách để trấn an tinh thần, xây dựng niềm tin vững chắc cho tám người chiến sĩ đã tin tưởng đi theo phục vụ Bác mà không hề nao núng. Sau này, khi có sự thay đổi về vị trí công tác, người kế nhiệm vẫn tiếp tục mang cái tên mà Bác đã đặt. Mọi người dường như được tái sinh một lần nữa, mang trong mình niềm tự hào vì được giao phó nhiệm vụ góp sức cùng người cha của dân tộc trên con đường giải phóng non sông. Tác Phẩm Kháng Chiến Nhất định Thắng Lợi Là Của sự đoàn kết, ý chí kiên cường của toàn dân tộc.

Những người đồng hành cùng Bác đến ngày thắng lợi

Khi một trong tám người chuyển công tác, sẽ có người khác thay thế, do đó có 3 người kế tiếp nhau mang tên Trường, 2 người tên Nhất và 2 người tên Thắng.

Ba người mang tên Trường: Đầu tiên (Võ Trường), tên thật Võ Chương, người gốc Huế. Trước Cách mạng tháng Tám dạy học tại Thanh Hóa, sau chuyển về Hà Nội. Tháng 10/1945, được đồng chí Nguyễn Lương Bằng bổ sung vào đội cận vệ của Bác. Ông chuyển sang công tác khác và mất năm 1949.

Người thứ hai mang tên Trường là Hoàng Văn Phức (Văn Lâm), người dân tộc Tày ở Cao Bằng. Trước năm 1945 là tự vệ của căn cứ địa cách mạng Cao Bằng. Từ tháng 5/1945 được giao nhiệm vụ bảo vệ Bác với tên Nhất. Sau khi ông Võ Chương nhận nhiệm vụ khác, ông Hoàng Văn Phức thay thế ông Trường và được gọi là Hồ Văn Trường. Sau này, ông coi giữ kho tài sản của Ngân hàng Nhà nước và là cán bộ Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, mất năm 1994.

Người thứ ba mang tên Trường là Phạm Văn Nền, quê ở Hà Nội. Sau này làm lái xe cho Bác cho đến khi Bác qua đời. Ông Nền mất năm 1996.

Người mang tên Kỳ (Vũ Kỳ), tên thật Vũ Long Chuẩn (Nguyễn Cần), quê ở Hà Đông. Tham gia Cách mạng từ năm 1941, bị địch bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội. Năm 1945 vượt ngục, tham gia Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 tại Hà Nội. Ông làm Thư ký giúp việc Bác Hồ từ 8/1945 đến năm 1949 và từ năm 1957 đến khi Bác mất. Trước khi nghỉ hưu, ông là Đại biểu Quốc hội khóa VIII, Giám đốc Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh. Ông mất năm 2005.

Người mang tên Kháng (Hoàng Hữu Kháng), quê ở Thái Bình, tên thật Nguyễn Văn Cao (Lý). Hoạt động Cách mạng trước năm 1945, từng bị địch bắt giam tại nhà tù Sơn La từ năm 1941, sau đó chuyển về nhà tù Chợ Chu, Thái Nguyên. Ông vượt ngục và tham gia xây dựng căn cứ địa ở Chiến khu Việt Bắc, làm Hiệu phó Trường quân chính kháng Nhật. Sau này, ông là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Cảnh vệ, Bộ Công an. Ông mất năm 1994.

Người mang tên Chiến (Tạ Quang Chiến), tên thật Nguyễn Hữu Văn, tham gia cách mạng năm 1943. Sau Cách mạng tháng 8/1945 được phục vụ Bác Hồ, đến năm 1957 chuyển công tác khác. Ông từng là Bí thư Trung ương Đoàn, Tổng cục trưởng Tổng cục Thể dục Thể thao, Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Y tế Xã hội của Quốc hội khóa VII. Ông qua đời tháng 6/2022, là người cận vệ cuối cùng của Bác.

Hai người mang tên Nhất, gồm người đầu tiên (Hồ Văn Nhất), dân tộc Tày, quê ở Cao Bằng, tên thật Hoàng Văn Phúc (Văn Lâm), bảo vệ Bác từ tháng 5/1945 khi Bác về Tân Trào, Tuyên Quang. Sau khi ông Võ Trường chuyển sang công tác khác, ông Hồ Văn Nhất thay thế ông Trường và được gọi là Hồ Văn Trường. Ông vừa có tên Nhất vừa có tên Trường. Sau này ông là cán bộ Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, mất năm 1994.

Người thứ hai mang tên Nhất, thay ông Hồ Văn Nhất là Long Văn Nhất, bí danh Tiên Phong, nguyên là cận vệ của đồng chí Võ Nguyên Giáp được điều sang phục vụ Bác Hồ. Ông mất năm 1967.

Người thứ sáu tên Định (Võ Viết Định), tên thật Chu Phương Vương (Ngọc Hà), chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, quê ở Cao Bằng, bảo vệ Bác từ tháng 8/1945. Tháng 5/1952 chuyển công tác. Sau này, ông là Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ nhiệm Công ty Xây lắp cơ khí thuộc Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên. Ông đã mất.

Hai người mang tên Thắng. Người đầu tiên là Nguyễn Quang Chí (Nguyễn Văn Huy). Bảy tháng sau ngày được Bác Hồ đặt tên, ông chuyển công tác khác. Người thứ hai mang tên Thắng (Triệu Hồng Thắng), tên thật Triệu Văn Cắt (Triệu Tiến Thọ), dân tộc Dao, quê ở Thái Nguyên. Sau năm 1954, ông Triệu Hồng Thắng là Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu tự trị Việt Bắc. Ông mất năm 1975.

Người thứ tám được Bác Hồ đặt tên Lợi (Trần Lợi), tên thật Trần Đình, dân tộc Nùng, quê ở Cao Bằng, nguyên là chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, bảo vệ Bác từ năm 1945 đến năm 1950 thì chuyển về địa phương. Ông đã mất trong kháng chiến chống Pháp.

Tất cả họ đều là những người đi vào lịch sử dân tộc, để lại dấu ấn sâu sắc trong bản hùng ca chiến thắng. Được Bác tin tưởng và đặt tên, mỗi người đều tự hào, là minh chứng cho một khẩu hiệu sống, nhiệt huyết và kiên cường. Tám người “cận vệ” được Bác Hồ khai sinh nay đều đã qua đời, nhưng câu chuyện về những người anh hùng ấy vẫn còn mãi, được khắc ghi trong dòng chảy lịch sử.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *