Viêm gót chân (bệnh Sever) thường được chẩn đoán thông qua các dấu hiệu lâm sàng. Nhiều bác sĩ cho rằng việc chụp X-quang là không cần thiết. Tuy nhiên, để đánh giá sự cần thiết của việc chụp X-quang ở trẻ em khi chẩn đoán viêm gót chân, chúng tôi đã xác định tần suất các bất thường trên phim chụp X-quang ở nhóm bệnh nhân này.
Phương pháp:
Chúng tôi tiến hành xem xét lại hồ sơ bệnh án và phim chụp X-quang của tất cả trẻ em từ 4 đến 17 tuổi đến khám với triệu chứng chính là đau gót chân. Những bệnh nhân có biểu hiện đau gót chân âm ỉ được đưa vào nghiên cứu; những trường hợp bị chấn thương cấp tính và chẩn đoán viêm gân Achilles thì bị loại trừ. Phim chụp X-quang được xem xét bởi 3 bác sĩ chỉnh hình (không biết về chẩn đoán lâm sàng) để xác định xem có bất kỳ bất thường nào trên phim hay không. Hồ sơ bệnh án được xem xét để xác định xem có yếu tố nào cho thấy một chẩn đoán khác ngoài viêm gót chân hay không.
Kết quả:
Chúng tôi xác định được 98 bệnh nhân (134 bàn chân) với độ tuổi trung bình là 10.8 tuổi được chẩn đoán lâm sàng là viêm gót chân. Kết quả chụp X-quang cho thấy những dấu hiệu bất thường (trên phim chụp nghiêng) ở 5 bệnh nhân (5 bàn chân): 3 trường hợp u nang xương đơn độc ở xương gót, 1 trường hợp u xơ không cốt hóa ở xương chày và 2 trường hợp gãy xương do mỏi ở xương gót (1 bệnh nhân có cả u nang xương đơn độc và gãy xương do mỏi ở cùng một bàn chân). Tỷ lệ phát hiện bất thường trên phim chụp X-quang ở 96 bệnh nhân là 5.1% (3.75% trên 133 bàn chân).
Kết luận:
Các bất thường trên phim chụp X-quang được phát hiện ở 5.1% trẻ em thường dẫn đến phương pháp điều trị tích cực hơn, bao gồm theo dõi chặt chẽ bằng X-quang hoặc cố định. Không có dấu hiệu chung nào trong tiền sử hoặc khám lâm sàng cho thấy bệnh nhân nào có khả năng có kết quả chụp X-quang dương tính cao hơn. Mặc dù lo ngại về việc tiếp xúc với bức xạ ion hóa và chi phí chụp chiếu, việc chụp X-quang nghiêng định kỳ có vẻ hợp lý để sàng lọc cho bệnh nhi bị đau gót chân. Nếu chẩn đoán viêm gót chân được đưa ra mà không có phim chụp X-quang, một tổn thương cần điều trị tích cực hơn có thể bị bỏ sót. Điều quan trọng là trẻ em cần được đánh giá toàn diện để đảm bảo không bỏ qua bất kỳ vấn đề tiềm ẩn nào.
Mức độ bằng chứng:
Mức IV, nghiên cứu hồi cứu.