Hồ Xuân Hương, “Bà Chúa thơ Nôm,” không chỉ là nhà thơ của phụ nữ mà còn là biểu tượng của sự phản kháng trong xã hội phong kiến. Bà dùng tiếng cười trào phúng để thể hiện quan điểm, bộc lộ cá tính và đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ. Thơ Nôm của bà là tiếng nói độc đáo, thấm đẫm khát vọng nữ quyền, góp phần làm phong phú văn học Việt Nam.
1. Tiếng Cười Trào Phúng: Vũ Khí Phê Phán Bất Bình Đẳng
Trong văn học, tiếng cười trào phúng là phương tiện biểu đạt mạnh mẽ. Nó phản ánh nỗi đau, sự chê bai, giễu cợt, mỉa mai, châm biếm và cả khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tiếng cười trào phúng bắt nguồn từ sự không hài lòng với thực tế, là sự đánh giá đối với một đối tượng nào đó, thể hiện tâm thế của chủ thể. Nó tố cáo cái xấu xa, đồng thời thể hiện mong muốn thay đổi hiện thực.
Trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương, tiếng cười trào phúng phá vỡ những định kiến về vai trò của phụ nữ. Bằng cách chế giễu quan niệm trọng nam khinh nữ, lên án sự bất công, các tác phẩm của bà giúp thay đổi nhận thức xã hội và đòi hỏi bình đẳng giới. Sự hài hước, mỉa mai có thể giúp người đọc nhận ra những điều bất thường mà trước đó họ từng chấp nhận như một điều bình thường. Từ đó, thơ của bà thúc đẩy sự thay đổi xã hội bằng cách chỉ ra những khía cạnh cần được cải thiện, khơi dậy tinh thần đấu tranh cho sự bình đẳng.
Vốn bị xem nhẹ trong xã hội, tiếng cười trào phúng trở thành chỗ dựa cho nữ giới. Sự trào phúng trong thơ giúp phụ nữ mạnh dạn lên tiếng về những bất công mà họ phải chịu đựng. Sự châm biếm, hài hước là phương tiện mạnh mẽ để phụ nữ thể hiện quan điểm của mình. Tiếng cười trào phúng cho phép các tác giả nữ quyền sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh một cách sáng tạo để thể hiện những suy nghĩ và cảm xúc của mình.
2. Khát Vọng Nữ Quyền Trong Thơ Nôm Trào Phúng Hồ Xuân Hương
Mặc dù sự phản kháng của người phụ nữ trong văn học dân gian và trung đại chỉ là sự “quẫy đạp” vô vọng, ý thức phái tính và nữ quyền vẫn được thể hiện bằng âm sắc riêng của những người phụ nữ giàu lòng trắc ẩn và khát khao hạnh phúc. Trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương, đặc trưng ý thức nữ quyền là tiếng cười trào phúng vừa xót xa vừa ngang tàng, mạnh mẽ. Qua tiếng cười đó, nữ sĩ muốn thể hiện khát vọng tự do, khát vọng tình yêu đôi lứa, muốn giải thiêng hình tượng nam giới, đả phá nam quyền.
- 2.1. Khát Vọng Tự Do, Chống Tư Tưởng Trọng Nam Khinh Nữ
Hồ Xuân Hương trong nhiều bài thơ đã khẳng định vai trò, giá trị của bản thân nói riêng và người phụ nữ nói chung. Chẳng hạn trong bài Bánh trôi nước, bà đã miêu tả người phụ nữ với vẻ đẹp đầy đặn, trong ngần: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Còn trong bài Đề tranh tố nữ, Hồ Xuân Hương đã khắc họa hình ảnh người phụ nữ bằng giọng điệu dí dỏm. Tương tự, Thiếu nữ ngủ ngày ca ngợi vẻ đẹp trinh trắng ngây thơ của người thiếu nữ với một nụ cười hóm hỉnh. Giữa thời buổi nhiễu nhương, người phụ nữ “vẫn giữ tấm lòng son” (Bánh trôi nước).
Đặc biệt, giọng điệu trào phúng trong bài Không chồng mà chửa đã đạt đến một tầng nấc mới của sự lên án, đả kích: nhà thơ dám thách thức cả chế độ phong kiến bằng quan niệm đi ngược lại với quan niệm của xã hội. Tố cáo tập tục khắc nghiệt, bóp nghẹt quyền sống của người phụ nữ, tiếng cười trào phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương chính là tiếng nói bày tỏ khát vọng được tự do của nữ giới.
Khẳng định vẻ đẹp hình thể, tâm hồn, trí tuệ của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương cười mỉa tư tưởng trọng nam khinh nữ của chế độ phong kiến. Hơn thế, bà đả kích, châm biếm thói hư tật xấu của những nhân vật đại diện cho chế độ này, từ vua chúa, quan thị cho đến sư sãi.
- 2.2. Khát Vọng Tình Yêu và Nhu Cầu Giải Phóng Tính Dục
Khát vọng tự do yêu đương trong thơ Hồ Xuân Hương là điều không phải bàn cãi. Thậm chí nhiều người cho rằng thơ bà luôn có ý lẳng lơ. Từ góc độ trào phúng, có thể thấy yếu tố cười cợt, trào lộng, châm biếm trong những bài thơ đề cập đến tình yêu và hôn nhân của bà đã góp một tiếng nói riêng, độc đáo trong hành trình đấu tranh cho nữ quyền.
Sống giữa xã hội mà đàn ông có quyền “năm thê bảy thiếp”, Hồ Xuân Hương vẫn khẳng định vẻ đẹp trọn vẹn, trinh trắng của người phụ nữ. Cay đắng là vậy nhưng nữ sĩ không cam chịu trong nghẹn ngào, bà ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ bằng một giọng điệu dí dỏm, khiến cho mọi khổ hạnh dường như nhẹ bẫng, chỉ còn lại tiếng cười tiềm ẩn trong đó sự tự tin và sức mạnh. Bà không ngần ngại đưa tên mình một cách đầy thách thức vào trong thơ, với hàm ý khẳng định chủ quyền.
Không những lên án chế độ đa thê coi thường phụ nữ, gây ra những cảnh trớ trêu khiến người phụ nữ khốn khổ, Hồ Xuân Hương còn mạnh dạn hơn trong đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho nữ giới khi đả phá những quan niệm, tập tục phong kiến khắc nghiệt về người phụ nữ “không chồng mà chửa”.
Điểm đặc biệt, cũng là điều gây tranh cãi trong thơ Hồ Xuân Hương chính là nhu cầu giải phóng tính dục được thể hiện một cách khá rõ nét. Có thể rõ ràng nhận thấy nhiều bài thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, nhất là các bài thơ có yếu tố tục, đều hướng đến tính dục. Bà thường xuyên ám chỉ các bộ phận sinh dục, ám chỉ chuyện tình dục.
- 2.3. Giải Thiêng Hình Tượng Nam Giới, Đả Phá Nam Quyền
Khẳng định giá trị của người phụ nữ, thể hiện khao khát được tự do sống, tự do yêu đương, Hồ Xuân Hương còn đấu tranh cho nữ quyền bằng cách chĩa mũi nhọn tấn công vào nam giới. Tiếng cười mỉa mai, đả kích của bà chính là thứ vũ khí sắc bén.
Nếu như chế độ phong kiến coi trọng nam giới, coi thường phụ nữ, thì Hồ Xuân Hương cất tiếng cười giải thiêng hình tượng nam giới, qua đó đả phá nam quyền. Bà chống lại những kẻ được mệnh danh là anh hùng quân tử nhưng bản chất thì hèn kém, dốt nát.
Với những thi phẩm trào phúng của mình, Hồ Xuân Hương đã tạo ra một cá tính sáng tạo độc đáo trong văn học nữ giới nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung. Thơ Nôm trào phúng Hồ Xuân Hương đã thể hiện rõ nét ý thức phái tính, khát vọng được tự do, được yêu, được bình đẳng với nam giới. Tiếng cười của bà, dẫu ít nhiều chứa đựng xa xót, vẫn thể hiện sự dí dỏm, hài hước, hào sảng và cả sự mạnh mẽ, táo bạo trong khát vọng đầy tính nhân văn này.