Vì Sao Miền Bắc Tiến Hành Công Cuộc Cải Cách Ruộng Đất?

Từ khi thành lập, Đảng ta đã xác định hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng là phản đế và phản phong. Với nhiều hình thức và khẩu hiệu đấu tranh, Đảng lãnh đạo nhân dân giành độc lập và ruộng đất cho nông dân, thực hiện cách mạng dân tộc và dân chủ.

Năm 1941, để giải phóng dân tộc khỏi ách phát xít Nhật và thực dân Pháp, Đảng tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ, thay vào đó là giảm tô, giảm tức và tịch thu ruộng đất của thực dân, việt gian chia cho nông dân.

Sau Cách mạng Tháng Tám, chính sách này được thi hành, mang lại quyền lợi cho nông dân và có tác dụng quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Pháp.

Đầu năm 1953, Hội nghị Trung ương lần thứ tư thông qua cương lĩnh ruộng đất, chủ trương “phóng tay phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức… nhằm thoả mãn bước đầu yêu cầu chính đáng của nông dân; chỉnh đốn đảng, chỉnh đốn nông hội, chỉnh đốn chính quyền và mặt trận về tư tưởng và tổ chức, đập tan uy thế chính trị của địa chủ phong kiến, giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động ở nông thôn”.

Tháng 11 năm 1953, Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng thảo luận đề án Luật Cải cách ruộng đất, sau đó được Quốc hội thông qua. Quyết định này là đúng đắn, cần thiết, hợp tình hợp lý và được nhân dân hoan nghênh.

Công tác phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất được tiến hành trong kháng chiến. Thời kỳ đầu, công tác này được lãnh đạo chặt chẽ, thu được kết quả, góp phần củng cố hậu phương và giành thắng lợi cho kháng chiến.

Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Bộ Chính trị phân tích tình hình mới, bổ sung chính sách cải cách ruộng đất, được nhân dân rộng rãi tán thành.

Tuy nhiên, trong lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện, đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trong việc chấp hành đường lối nông thôn của Đảng, quy định thành phần, đánh địch, chỉnh đốn tổ chức, thực hiện chính sách tôn giáo và dân tộc.

Công tác chỉnh đốn đảng, chính quyền, nông hội được kết hợp thực hiện trong vận động giảm tô và cải cách ruộng đất. Công tác này thu được kết quả trong thời kỳ đầu, nhưng càng về sau thì sai lầm càng nghiêm trọng.

Cần đánh giá đúng kết quả và sai lầm của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức để thống nhất tư tưởng, đoàn kết nội bộ, sửa chữa sai lầm, phát huy thành tích, khắc phục tình hình căng thẳng ở nông thôn, củng cố tinh thần tin tưởng và phấn khởi của toàn Đảng và toàn dân, tiếp tục đấu tranh để củng cố miền Bắc, tranh thủ miền Nam và thực hiện thống nhất nước nhà.

Trong khi nhận định cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất, không thể tách rời cuộc đấu tranh cách mạng chống phong kiến do Đảng lãnh đạo từ năm 1930, cũng như cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ của toàn dân để đánh đổ chủ nghĩa đế quốc. Với cuộc vận động này, ta đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ phản phong ở miền Bắc.

Hiện nay ở miền Bắc, giai cấp địa chủ căn bản đã bị đánh đổ. Ruộng đất đã về tay nông dân. Hơn 10 triệu nông dân lao động đã vươn mình và làm chủ nông thôn, hàng vạn cốt cán được đào tạo; chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất đã vĩnh viễn bị xoá bỏ.

Đó là một cuộc chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị và xã hội. Nguyện vọng lâu đời của nông dân Việt Nam đã được thoả mãn: khẩu hiệu người cày có ruộng đã được thực hiện. Trình độ giác ngộ giai cấp của nông dân lao động đã được nâng cao một phần. Hàng triệu nông dân lao động đã thấy rõ rằng chính Đảng ta và chế độ ta đã đưa lại ruộng đất cho họ. Sức sản xuất to lớn ở nông thôn đã được giải phóng, quan hệ sản xuất ở nông thôn đang đổi mới, do đó sản xuất nông nghiệp bước đầu được đẩy mạnh, đời sống nông dân bước đầu được cải thiện. Nông thôn đã bước sang một giai đoạn mới trong việc phát triển nông nghiệp, mở đường cho công thương nghiệp phát triển và góp phần quan trọng vào công cuộc củng cố miền Bắc, phát triển kinh tế và văn hoá của nước nhà.

Tuy nhiên, trong cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất, về mặt lãnh đạo, nhất là trong việc chỉ đạo thực hiện, đã phạm nhiều sai lầm. Đó là những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến, kéo dài về nhiều mặt, những sai lầm về những vấn đề nguyên tắc, trái với chính sách của Đảng, trái với nguyên tắc và điều lệ của một đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin, trái với chế độ pháp luật của nhà nước dân chủ nhân dân. Những sai lầm đó không những đã hạn chế những thắng lợi đã thu được, mà lại gây ra những tổn thất rất lớn cho cơ sở của Đảng, của chính quyền, của các tổ chức quần chúng, ảnh hưởng tai hại đến chính sách mặt trận của Đảng ở nông thôn cũng như ở thành thị, ảnh hưởng nhiều đến tình cảm và đời sống bình thường của nhân dân ta, làm cho tình hình nông thôn căng thẳng, ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết và phấn khởi trong Đảng và trong nhân dân, đến công cuộc củng cố miền Bắc, đến sự nghiệp đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà.

Những sai lầm nói trên đã có từ lúc đầu, nhưng càng về sau thì càng thêm nặng, nhất là từ khi hòa bình lập lại, trong giảm tô đợt 7 và đợt 8, trong cải cách ruộng đất đợt 4 và đợt 5.

Về việc chấp hành đường lối nông thôn của Đảng “dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú nông, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất có từng bước, có phân biệt, có trật tự và có lãnh đạo”. Trong công tác nói chung, cán bộ đã chú trọng dựa vào bần cố nông, nhờ đó mà đã tổ chức được lực lượng đấu tranh của quần chúng để đánh đổ giai cấp địa chủ. Nhưng vì không nắm vững chính sách nên ở nhiều nơi trong việc phân định thành phần giai cấp là một vấn đề quan trọng, nhiều người đã bị vạch lầm thành phần. Do chỗ hiểu lệch đường lối “dựa hẳn vào bần cố nông”, lại vì đánh giá sai các tổ chức của Đảng, của chính quyền, của đoàn thể quần chúng trong đó có những phần tử nông dân lao động ưu tú, vì có nơi cán bộ đã hướng dẫn sai hoặc dựa vào những phần tử xấu, vì truy liên quan, đánh địch tràn lan, vì nâng diện tích và sản lượng lên quá mức, cho nên một số bần cố nông cũng bị đả kích, trung nông bị đụng chạm nhiều; chính sách ưu đãi quân nhân nhiều nơi không thực hiện; đối với phú nông thì không liên hiệp mà coi gần như địa chủ; đối với địa chủ thì không phân biệt đối xử theo đúng chính sách; nhiều nơi không những không chiếu cố mà có nơi còn đả kích địa chủ kháng chiến và các gia đình địa chủ có công với cách mạng hoặc có con em đi bộ đội và làm cán bộ.

Về việc phát động quần chúng đánh đổ giai cấp địa chủ, kết hợp trấn áp bọn phá hoại hiện hành, chúng ta đã phát động quần chúng nông dân lao động đánh đổ giai cấp địa chủ; nhưng trong lúc làm việc đó thì đã phạm những sai lầm rất nghiêm trọng. Do chỗ đánh giá địch quá cao, nhấn mạnh quá đáng về tình hình nghiêm trọng do địch gây ra, không phân biệt những phản ứng quyết liệt của những phần tử địa chủ ngoan cố với tình hình gay go phức tạp do sự chấp hành sai đường lối nông thôn của Đảng đã gây ra, vì không nắm vững chính sách, phương châm và biện pháp đánh địch, vì nhiều nơi đã không thật sự phát động quần chúng để đánh địch, mà lại dùng phương pháp cưỡng bức và trấn áp thay cho phát động quần chúng, truy bức, nhục hình một cách phổ biến, cho nên việc đánh địch càng đi tới càng mất phương hướng, đánh tràn lan, đánh vào địch và đánh cả vào ta. Vì đánh giá sai tổ chức của Đảng, của chính quyền, của các đoàn thể quần chúng, cho nên đã coi tổ chức của ta là do địch lũng đoạn, do đó đã bắt bớ và xử trí bừa bãi những nông dân vô tội, đả kích mù quáng vào nhiều đảng viên và cán bộ tốt của Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng.

Về chỉnh đốn tổ chức ở nông thôn, trong khi thực hiện chúng ta đã phạm những sai lầm nghiêm trọng nhất trong toàn bộ công tác cải cách ruộng đất. Vấn đề này sẽ nói rõ trong phần về chỉnh đốn tổ chức.

Về việc kết hợp thực hiện các công tác khác ở nông thôn, tuy có đạt được một số kết quả, nhưng đã đề ra yêu cầu quá cao, kết hợp quá nhiều công tác trong một thời gian ngắn, làm cho công tác cải cách ruộng đất gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tinh thần phấn khởi sản xuất của nông dân.

Về cải cách ruộng đất ở những vùng nhiều đồng bào tôn giáo, nhiều nơi đã không nắm vững chính sách tôn giáo, xâm phạm đến tự do tín ngưỡng của nhân dân.

Về giảm tô và cải cách ruộng đất ở vùng dân tộc thiểu số, nhiều nơi đã không nắm vững chính sách dân tộc thiểu số, đã không chiếu cố đầy đủ đến đặc điểm của tình hình, áp dụng kinh nghiệm miền xuôi một cách máy móc.

Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) nhận định rằng đường lối chính sách của Trung ương về căn bản là đúng, nhưng sở dĩ có những sai lầm nói trên, là vì trong tư tưởng chỉ đạo có những khuyết điểm, nhất là trong sự chỉ đạo thực hiện đã phạm nhiều khuyết điểm sai lầm nghiêm trọng.

Từ năm 1953, Trung ương Đảng ta đã xác định tư tưởng chỉ đạo trong chính sách ruộng đất như sau: “Ta thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến, nên phải đấu tranh trên hai mặt trận: mặt trận chống đế quốc và mặt trận chống phong kiến. Ta lại có mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Vì vậy càng bớt được kẻ địch càng tốt, càng cô lập và phân hoá được giai cấp địa chủ càng hay. Diện đả kích không nên quá rộng”.

Tinh thần nói trên đến Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất tháng 11 năm 1953 lại được nhắc lại: “Trên cơ sở thoả mãn yêu cầu về ruộng đất của nông dân, cần phân biệt đối đãi với các hạng địa chủ và chiếu cố địa chủ kháng chiến một cách đúng mức, làm sao cho càng ít kẻ địch càng tốt”.

Sau khi hoà bình lập lại, Nghị quyết tháng 9 năm 1954 của Bộ Chính trị, phần nói về cải cách ruộng đất lại nêu rõ: “Một mặt hết sức thoả mãn yêu cầu về kinh tế và chính trị của nông dân để phát động nông dân và tranh thủ sự ủng hộ của nông dân. Mặt khác lại cần hết sức mở rộng mặt trận chống phong kiến và mặt trận dân tộc thống nhất, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, trung lập mọi lực lượng có thể trung lập được để tranh thủ đa số, cô lập thiểu số, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất”.

Trong việc chỉ đạo chính sách cụ thể, Bộ Chính trị đã xuất phát từ đường lối căn bản nói trên để đề ra những chính sách bổ sung thích hợp. Như sau đợt thí điểm giảm tô, đã đề ra khẩu hiệu “liên hiệp phú nông” và nhấn mạnh sự cần thiết thu hẹp diện đấu tranh để mở rộng mặt trận chống phong kiến. Lại như sau khi hòa bình lập lại, Bộ Chính trị đã thông qua những điểm bổ sung mới về chính sách và phương thức đấu tranh; dùng hình thức tòa án thay cho những cuộc đại hội đấu tranh của nông dân, mở rộng diện trưng mua, quy định việc hiến ruộng đất, chiếu cố những địa chủ kháng chiến và gia đình địa chủ có con em đi bộ đội, làm cán bộ hoặc viên chức cách mạng; chiếu cố nhà công thương kiêm địa chủ và những người tu hành, v.v..

Tuy nhiên, trong tư tưởng chỉ đạo có những khuyết điểm, cho nên một số chính sách khác do Trung ương hay Bộ Chính trị đề ra có thiếu sót hoặc thiếu thận trọng như trong vấn đề chiếu cố những gia đình địa chủ có công với cách mạng, gia đình địa chủ có con em đi bộ đội, làm cán bộ hoặc viên chức cách mạng; đối với địa chủ kháng chiến thì biện pháp cụ thể không được quy định rõ ràng; chủ trương kết hợp với phát động quần chúng trấn áp bọn phá hoại hiện hành, căn bản làm tan rã tổ chức phản động là một quyết định không đúng. Trong chính sách cải cách ruộng đất ở các vùng tôn giáo và vùng dân tộc thiểu số, cũng có những điểm không thích hợp, v.v.. Những thiếu sót nói trên đã có ảnh hưởng đến những sai lầm vừa qua.

Những nguyên nhân trực tiếp đã gây ra những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài trong cải cách ruộng đất là do những khuyết điểm sau đây:

a) Trong khi chỉ đạo thực hiện, việc lãnh đạo tư tưởng đã có nhiều lệch lạc. Lúc đầu, khi phong trào mới phát động, phương châm chống hữu, phòng “tả” là đúng. Nhưng về sau, trong khi phong trào đã có những sai lầm “tả” khuynh, sự chỉ đạo không những đã không phát hiện được những sai lầm, mà lại cứ một chiều nhấn mạnh chống hữu khuynh, gây ra một cao trào chống hữu trong Đảng, không chú ý đến việc phòng “tả” do đó mà những sai lầm “tả” khuynh càng trở nên trầm trọng.

b) Trong khi chỉ đạo thực hiện, thì do những lệch lạc về lãnh đạo tư tưởng, nhiều chính sách của Trung ương đã không được quán triệt và phổ biến đúng đắn, phần nhiều bị hiểu sai, do đó mà không được chấp hành đầy đủ, thậm chí không được chấp hành hoặc làm trái ngược lại. Đường lối nông thôn của Đảng, vấn đề quy định thành phần, vấn đề đánh địch, vấn đề chỉnh đốn tổ chức, vấn đề phát động quần chúng trong vùng tôn giáo, vùng thiểu số, v.v. đều không được thi hành đúng đắn như trên đã nói. Hầu hết các điểm bổ sung về chính sách nhằm mở rộng mặt trận chống phong kiến và phân hoá giai cấp địa chủ đều không được thi hành hoặc thi hành không đầy đủ. Từ khi hoà bình lập lại, chính sách thì nhấn mạnh thu hẹp diện đấu tranh và vận dụng biện pháp chính quyền nhiều hơn, mà khi thi hành thì đả kích và đấu tố tràn lan, chính sách thì cấm truy bức, nhục hình, mà khi thi hành thì việc truy bức, nhục hình đã trở nên phổ biến. Do tư tưởng lệch lạc, cho nên việc vận dụng “điển hình” đã trở nên một phương pháp để làm cho những sai lầm trong một địa phương trở nên phổ biến khắp nơi. Các cơ quan có trách nhiệm nhiều khi lại tự động ra những chỉ thị sai lầm như vấn đề kết hợp với đánh địch bên ngoài mà tiến hành đánh địch bên trong, như yêu cầu triệt để làm tan rã tổ chức địch trong Đảng, v.v..

c) Việc tổ chức thực hiện đã có nhiều thiếu sót nghiêm trọng. Các cơ quan cải cách ruộng đất tổ chức thành một hệ thống riêng từ trên xuống dưới với những quyền hạn quá rộng, đã dần dần lấn hết quyền của cấp uỷ và chính quyền, và từ cấp khu trở xuống, nhiều nơi đã đặt mình lên trên cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương.

Việc bố trí lực lượng cán bộ đã không theo một nguyên tắc nào cả, thậm chí đã để cho những cán bộ non nớt chỉ đạo những cán bộ có nhiều kinh nghiệm, giao cho những người ngoài Đảng làm công tác chỉnh đốn đảng. Chính sách ưu đãi quá đáng, tư tưởng sai lệch về “thi đua lập thành tích”, nhất là lập thành tích đánh địch, đã ảnh hưởng nhiều đến tinh thần chấp hành chính sách của cán bộ. Trong đợt 5 thì 2/3 cán bộ chưa có kinh nghiệm cải cách ruộng đất, phạm vi hoạt động thì rộng và phức tạp, yêu cầu thì nhiều, gấp và cao, thế mà việc giáo dục cán bộ đã không được chú trọng đầy đủ. Do việc chọn lựa không kỹ, do sự giáo dục thiếu sót hoặc lệch lạc, cho nên cán bộ các đoàn và các đội mặc dầu nói chung có tinh thần tích cực công tác nhưng nhiều nơi đã phạm những sai lầm nghiêm trọng và phổ biến. Mười điều kỷ luật không được chấp hành đúng đắn; một số ít những phần tử xấu đã có những hành động phá hoại chính sách.

Về tư tưởng cũng như về tác phong từ trên xuống dưới, với những mức độ khác nhau, hiện tượng độc đoán chuyên quyền đã trở nên trầm trọng; không chấp hành đúng đường lối chính sách, vi phạm nguyên tắc và Điều lệ của Đảng, không tuân theo pháp luật của Nhà nước; đối với cấp trên thì không báo cáo đúng tình hình và nhiều khi không xin chỉ thị; đối với cấp dưới thì đàn áp ý kiến và thúc ép làm theo ý muốn của mình; chủ quan, tự mãn một cách nghiêm trọng; chỉ cho mình là đúng, không chịu nghe ý kiến của quần chúng, của cán bộ; không quan tâm đến lợi ích của quần chúng và sinh mệnh chính trị của đảng viên, của cán bộ. Tác phong lãnh đạo thoát ly quần chúng, thoát ly thực tế, đã làm cho những sai lầm trong cải cách ruộng đất kéo dài, mãi đến khi đã trở nên trầm trọng mới phát hiện được.

Công tác chỉnh đốn tổ chức bao gồm các tổ chức của Đảng, của chính quyền, của các tổ chức quần chúng. ở đây đặc biệt kiểm điểm về vấn đề chỉnh đốn tổ chức của Đảng.

Việc chỉnh đốn chi bộ xã đã được đề ra thành một công tác quan trọng và một trong những yêu cầu chính, cần phải kết hợp với cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất mà thực hiện.

Công tác chỉnh đốn chi bộ trong các đợt đầu của cuộc vận động giảm tô đã thu được một số kết quả, nhưng về sau, nhất là từ các đợt giảm tô 7 và 8 và các đợt cải cách ruộng đất 4 và 5 thì những sai lầm càng ngày càng trở nên nghiêm trọng; đả kích tràn lan vào nội bộ của Đảng, tỷ lệ xử trí quá cao, giải tán chi bộ một cách bừa bãi. Do đó mà nhìn chung thì cuộc vận động chỉnh đốn chi bộ đã làm cho cơ sở cũ của Đảng ở nông thôn trong vùng cải cách ruộng đất bị tổn thất nặng; nhiều đảng viên tốt đã được rèn luyện trong công tác và trong chiến đấu từ trước Cách mạng Tháng Tám hoặc từ ngày kháng chiến đã bị xử trí nhầm, thậm chí bị coi là địch và bị đả kích rất nặng. Vì đánh giá không đúng tổ chức của Đảng, cho nên ở nhiều nơi cán bộ đã mất cảnh giác trước những lời khai vấy của những phần tử xấu; thậm chí một số cán bộ vì động cơ không tốt mà thúc ép quần chúng dựng đứng tội trạng để tố cáo đảng viên.

Về mặt khác, công tác chỉnh đốn chi bộ đã thanh trừ một số phần tử còn giữ lập trường của giai cấp bóc lột và những phần tử xấu ra khỏi Đảng, đồng thời kết nạp một số đảng viên mới, hầu hết là bần cố nông, xây dựng một số chi bộ ở các nơi trước đây chưa có chi bộ. Song việc kết nạp đảng viên mới, do chỉ đạo không chú trọng đầy đủ đến tiêu chuẩn và nguyên tắc, Điều lệ của Đảng, nhiều nơi lại làm một cách vội vàng, cho nên một số đảng viên mới còn quá ít tuổi hoặc thiếu kinh nghiệm đấu tranh đã được đề bạt quá sớm lên những chức vụ phụ trách; một số phần tử đầu cơ đã được tổ chức vào Đảng. Năng lực và uy tín của chi bộ xã, do đó mà ở nhiều nơi đã bị giảm sút.

Việc chỉnh đốn đảng ở cấp tỉnh, huyện đã tiến hành trong bảy tỉnh, sau đó đã có chỉ thị của Bộ Chính trị đình chỉ lại. Vì chủ trương, phương pháp đều sai lầm, cho nên công tác chỉnh đốn các cấp tỉnh, huyện là một thất bại đau đớn cho Đảng ta. Nhiều cán bộ tốt và có công đã bị xử trí oan, nhiều cấp uỷ cũ của Đảng bị tan rã, cấp uỷ mới xây dựng nói chung là yếu và có nơi phức tạp, lịch sử đấu tranh của nhiều chi bộ và nhiều đảng bộ bị xuyên tạc và bôi nhọ.

Những sai lầm trong việc chỉnh đốn tổ chức của Đảng đã ảnh hưởng không tốt đến công tác chỉnh đốn các tổ chức chính quyền, các tổ chức dân quân du kích và các đoàn thể quần chúng, trừ tổ chức nông hội thì ở nhiều địa phương đã được phát triển.

Nhìn chung, công tác chỉnh đốn tổ chức ở cấp xã và ở các cấp huyện và tỉnh, với những mức độ khác nhau tuỳ theo đợt và tuỳ theo địa phương, đã gây ra nhiều thiệt hại cho Đảng ta. Nó đã làm cho lực lượng của Đảng bị tổn thất nặng, làm cho đảng viên và cán bộ hoang mang và hoài nghi chính sách của Đảng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến truyền thống và chí khí đấu tranh của các đảng bộ, đến tinh thần đoàn kết trong Đảng, trong chính quyền, trong mặt trận, khiến cho uy tín của Đảng bị giảm sút trong quần chúng, quan hệ giữa Đảng và quần chúng bị ảnh hưởng rất nhiều.

Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) nhận định rằng sở dĩ đã xảy ra những sai lầm nói trên là do:

  1. Đánh giá không đúng tổ chức của Đảng và không nắm vững đường lối xây dựng đảng. Đảng ta đã được xây dựng trong hoàn cảnh một nước nông nghiệp, trước đây là một nước thuộc địa và nửa phong kiến, công tác xây dựng đảng, công tác giáo dục đảng viên về chính trị và tư tưởng ở trong Đảng có nhiều thiếu sót. Nhưng mặt khác, Đảng ta đã được thử thách, rèn luyện trong quá trình cách mạng và kháng chiến, từ năm 1952 đã trải qua một thời kỳ chỉnh đảng, cho nên chất lượng chính trị đã được nâng cao một phần nào.

Đi vào phát động quần chúng giảm tô, Bộ Chính trị nhận định rằng chi bộ của ta ở nông thôn chia làm ba loại: loại tốt, loại trung bình và loại xấu, cho rằng phần lớn chi bộ thuộc loại trung bình, còn loại chi bộ phải giải tán là cá biệt. Chúng ta đã chủ trương kết hợp với phát động quần chúng mà chỉnh đốn chi bộ. Nhưng lẽ ra, lúc đánh giá chi bộ, cần phải nêu thành tích đấu tranh và quá trình được thử thách, rèn luyện của chi bộ để tránh những nhận định lệch lạc. Trong quá trình thực hiện công tác chỉnh đốn tổ chức, những nhận định lệch lạc đã xuất hiện và dần dần trở nên nghiêm trọng; mặc dầu chi bộ đã được chia ra làm ba loại, nhưng trong khi phát động quần chúng thì nói chung là không dựa vào chi bộ, đến khi chỉnh đốn thì lại đả kích tràn lan.

Sau các đợt đầu giảm tô, chất lượng chi bộ đã được nâng cao hơn trước, nhưng lại nhận định rằng tình hình chi bộ vẫn phức tạp nghiêm trọng. Về sau, khi bắt đầu chỉnh đốn chi bộ trong vùng mới giải phóng, lại nhận định rằng tổ chức của Đảng trong vùng mới giải phóng là phức tạp nghiêm trọng, “có nơi địch lũng đoạn, tổ chức địch lồng vào tổ chức của ta”. Trong khi về cải cách ruộng đất đề ra chủ trương “căn bản làm tan rã tổ chức phản động” thì về chỉnh đốn tổ chức, Ban Tổ chức Trung ương lại đề ra chủ trương “triệt để làm tan rã tổ chức phản động ở trong Đảng”.

Nhận định đó đi đôi với nhận định lệch lạc về địch, với cách đánh địch bừa bãi, đã dần dần đưa đến chỗ nhiều nơi coi tổ chức cũ của Đảng là tổ chức của địch và do đó đã ra sức trấn áp.

Ở các cấp tỉnh và huyện thì sau chỉnh đảng, chất lượng các cấp uỷ đã được nâng cao, về tư tưởng còn phức tạp một phần nào, về tổ chức thì phức tạp là cá biệt và chỉ ở một số cơ quan nào đó. Nhưng vì thiếu điều tra nghiên cứu, thiếu quan tâm đầy đủ đến sinh mệnh chính trị của đảng viên và cán bộ, không đánh giá đúng những tài liệu phát hiện trong việc chỉnh đốn chi bộ, cho nên chúng ta đã đánh giá là phức tạp nghiêm trọng và đã đề ra chủ trương chỉnh đốn các cấp tỉnh, huyện, mà chủ trương đó thực tế là không đúng.

Sự đánh giá không đúng tổ chức của Đảng biểu hiện một nhận thức sai lầm đối với công tác xây dựng và giáo dục của Đảng ta từ trước tới nay, phủ nhận vai trò của tổ chức cơ sở và đại đa số đảng viên trong cuộc đấu tranh cách mạng gay go và anh dũng, phủ nhận kết quả chỉnh huấn và chỉnh đảng ở các cấp tỉnh, huyện và sự đóng góp của các cấp bộ đảng đối với phong trào, phủ nhận cả truyền thống và lịch sử đấu tranh của các đảng bộ, của nhân dân.

Sự đánh giá không đúng nói trên bắt nguồn ở chỗ không nắm vững tình hình thực tế và đặc điểm của Đảng ta, không nắm vững đường lối xây dựng đảng. Như trên đã nói, Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, nhưng sinh trưởng trong một nước vốn là thuộc địa và nửa phong kiến, giai cấp công nhân chưa phát triển mấy. Trong quá trình đấu tranh chống đế quốc và phong kiến, ngoài những người công nhân giác ngộ, có nhiều phần tử ưu tú của giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, những người trí thức cách mạng, một số xuất thân từ giai cấp bóc lột cũng hăng hái tham gia cách mạng và gia nhập Đảng ta. Do không nhận rõ điều đó, cho nên khi đánh giá đảng viên và tổ chức của Đảng, không nắm vững tiêu chuẩn lập trường và tư tưởng mà lại đi vào chủ nghĩa thành phần, cho rằng tính chất của tổ chức đảng là do thành phần giai cấp quyết định. Đương nhiên, Đảng ta phải chú ý thích đáng đến thành phần giai cấp của đảng viên, vì nó có ảnh hưởng đến tư tưởng và tác phong của Đảng, nhưng nếu chỉ căn cứ vào thành phần giai cấp mà đánh giá đảng viên và các tổ chức của Đảng thì là sai lầm lớn.

  1. Việc tổ chức thực hiện phạm nhiều sai lầm: mặc dầu Trung ương đã nêu ra phương châm chỉnh đốn đảng là lấy giáo dục làm chính, nhưng trong khi thực hiện lại nặng về biện pháp xử trí về tổ chức, thi hành kỷ luật, khai trừ, giải tán chi bộ, bắt bớ và xử trí bừa bãi. Ban Tổ chức Trung ương tự ý đề ra và làm theo hai phương châm “đối với đảng viên thì kiên trì giáo dục, đối với địch thì kiên quyết trấn áp”, do đó đã đem phương pháp đấu tranh chống kẻ địch áp dụng vào việc chỉnh đốn tổ chức của Đảng và như vậy là rất sai lầm. Trong việc chỉnh đốn chi bộ thì nhiều nơi đã dùng quần chúng để tố cáo và vạch tội đảng viên; truy bức và nhục hình trở nên phổ biến.

Trong công tác chỉnh đốn, các cơ quan phụ trách đã không dựa vào cấp uỷ, phổ biến là không tin ở cấp uỷ, các tổ chỉnh đốn hoặc do hệ thống cải cách ruộng đất, hoặc do Ban Tổ chức Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Cán bộ chỉnh đốn tổ chức lại không được chọn lựa một cách thận trọng và giáo dục đúng đắn, ở nhiều nơi đã dùng những cán bộ non kém ở cấp dưới đến chỉnh đốn cấp trên, hoặc giao cho cán bộ của đội không phải là đảng viên nhiệm vụ xử trí, kết nạp đảng viên.

Nguyên tắc và Điều lệ của Đảng không được tôn trọng. Sinh mệnh chính trị của đảng viên và cán bộ bị coi thường. Quyền tự do tối thiểu của người công dân bị vi phạm. Hiện tượng độc đoán chuyên quyền rất nghiêm trọng trong cán bộ chỉnh đốn tổ chức.

Trên đây là những nguyên nhân trực tiếp đã đưa đến những sai lầm nghiêm trọng và tổn thất nặng nề trong công tác chỉnh đốn tổ chức.

Lúc đầu, khi đề ra chính sách phát động quần chúng thực hiện giảm tô và cải cách ruộng đất, Đảng ta đã đặt vấn đề chống những sai lầm hữu khuynh. Sai lầm hữu khuynh lúc bấy giờ biểu hiện ở tư tưởng coi nhẹ nhiệm vụ phản phong, không kiên quyết đứng về phía nông dân và phát động nông dân đấu tranh, không kiên quyết đấu tranh chống giai cấp địa chủ.

Vì lúc đặt vấn đề chống hữu khuynh, chúng ta thiếu phân tách, tổng kết cho sâu sắc cụ thể, phân biệt cái gì sai, cái gì đúng, và sai ở mức độ nào, hữu khuynh đến mức độ nào, bên cạnh những tư tưởng hữu khuynh có tư tưởng “tả” khuynh hay không, cho nên khi đi vào sửa chữa thì ngay lúc đầu những sai lầm “tả” khuynh đã chớm nở, và càng về sau, nhất là từ khi hoà bình được lập lại thì càng trở nên phổ biến và nghiêm trọng.

Sai lầm “tả” khuynh trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức biểu hiện chủ yếu trên những vấn đề sau đây:

a) Chú trọng thoả mãn yêu cầu về kinh tế và chính trị của nông dân lao động, như vậy là đúng, nhưng sai lầm ở chỗ coi nhẹ yêu cầu toàn diện của nhiệm vụ cách mạng, coi nhẹ yêu cầu mở rộng mặt trận chống phong kiến và mặt trận dân tộc thống nhất.

Vì vậy mà trong khi thực hiện nhiệm vụ phản phong, đã coi nhẹ thậm chí nhiều nơi cán bộ đã phủ nhận những thành tích của cuộc đấu tranh phản đế, tách rời cải cách ruộng đất với kháng chiến và cách mạng, thậm chí có nơi làm cho đối lập với nhau.

Vì vậy mà trong khi thực hiện nhiệm vụ phản phong đã hiểu vấn đề củng cố miền Bắc một cách đơn thuần, coi nhẹ chính sách tranh thủ miền Nam, coi nhẹ yêu cầu của nhiệm vụ đấu tranh để thống nhất nước nhà.

b) Trong khi chấp hành đường lối nông thôn của Đảng thì đã chú trọng dựa vào bần cố nông, như vậy là đúng (nhưng thực tế do những sai lầm nói trên, cho nên hàng ngũ bần cố nông cũng bị đả kích một chừng nào). Những sai lầm ở chỗ coi nhẹ đoàn kết chặt chẽ với trung nông, thậm chí đụng chạm đến lợi ích của trung nông, không thực hiện chính sách liên hiệp phú nông, thậm chí đả kích phú nông, coi phú nông gần như địa chủ.

c) Trong khi phát động quần chúng đánh đổ giai cấp địa chủ thì nhấn mạnh kiên quyết đánh đổ giai cấp địa chủ là đúng; nhưng sai lầm ở chỗ đả kích tràn lan, không thi hành sách lược phân hoá, không chiếu cố gia đình địa chủ có công với cách mạng, gia đình địa chủ có con em đi bộ đội hoặc làm cán bộ, không chiếu cố địa chủ kháng chiến và phân biệt đối xử con cái địa chủ.

d) Trong khi thực hiện nhiệm vụ đánh địch thì quá nhấn mạnh kiên quyết đánh địch, không chú trọng đề phòng lệch lạc, không nhấn mạnh phải thận trọng, tránh xử trí oan những người ngay, do đó mà đi đến mở rộng diện đả kích, đánh địch tràn lan, dùng những biện pháp trấn áp quá đáng một cách phổ biến.

e) Trong khi thực hiện chính sách cải cách ruộng đất ở nơi có nhiều đồng bào tôn giáo thì cũng mở rộng diện đả kích; đụng chạm đến tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng của nhân dân, nhiều nơi để lại ruộng đất cho nhà thờ, nhà chùa không đúng chính sách đã quy định.

g) Trong khi thực hiện chính sách cải cách ruộng đất ở vùng thiểu số thì đả kích mù quáng vào từng lớp trên; không coi trọng, thậm chí xâm phạm đến phong tục tập quán của địa phương.

h) Trong công tác chỉnh đốn tổ chức thì sai lầm ở chỗ không nắm vững tiêu chuẩn lập trường và tư tưởng, mà lại phạm vào chủ nghĩa thành phần, do đó đã đánh giá sai tổ chức của Đảng, sai lầm ở chỗ không chú trọng phương châm giáo dục mà đơn thuần dùng biện pháp tổ chức: thanh trừ, xử trí, giải tán chi bộ hàng loạt; sai lầm ở chỗ dùng những phương pháp đấu tố, truy bức để chỉnh đốn đảng.

Những sai lầm “tả” khuynh nói trên đã gây ra những ảnh hưởng vô cùng tai hại cho Đảng và nhân dân ta. Những sai lầm đó đã phát sinh ra trong những điều kiện chủ quan và khách quan như thế nào? Về mặt chủ quan, thì sự lãnh đạo của Đảng ta còn nhiều thiếu sót về trình độ lý luận và trình độ chính trị: chưa kết hợp đầy đủ những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam, với đặc điểm của tình hình xã hội, kinh tế, chính trị của nước nhà; chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phong phú của Đảng và của nhân dân ta từ trước đến nay, do đó thiếu điều kiện để tiếp thu kinh nghiệm nước bạn một cách sáng tạo. Về nguyên tắc tổ chức, chúng ta chưa quán triệt và tôn trọng những nguyên tắc tập thể và dân chủ trong sinh hoạt đảng. Về mặt khách quan, thì chế độ dân chủ cộng hoà từ khi mới thành lập, đã phải tiến hành một cuộc chiến tranh tự vệ lâu dài và gian khổ; do đó mà sức mạnh của chế độ ta đã được rèn luyện và thử thách rất nhiều, nhưng đồng thời sinh hoạt dân chủ có bị hạn chế, chưa được phát huy; nhân dân chưa được giáo dục đầy đủ về tự do dân chủ. Chúng ta cần rút những bài học kinh nghiệm sâu sắc để nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng, phát huy bản chất dân chủ của chế độ ta. Những sai lầm nghiêm trọng vừa qua trái hẳn với bản chất của chế độ ta, trái với đường lối chính sách căn bản của Đảng.

Công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã có nhiều sai lầm. Chúng ta cần nhận rõ sai lầm, kiên quyết sửa chữa và nhất định sửa chữa được.

Sửa chữa sai lầm, phát huy thắng lợi:

Từ tháng 4 năm nay, khi bắt đầu phát hiện những sai lầm, Bộ Chính trị đã có chỉ thị sửa chữa bước đầu. Gần đây, Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) lại thông qua một số biện pháp để giải quyết những vấn đề cấp tốc. Việc sửa chữa đã thu được những kết quả đầu tiên. Tuy nhiên, hiện nay tình hình nhiều nơi trong vùng nông thôn đã cải cách ruộng đất còn gay go và phức tạp. Những nhân tố thắng lợi của cải cách ruộng đất chưa phát huy tác dụng được mấy; trái lại những nhân tố sai lầm và tiêu cực vẫn còn tiếp tục phát triển.

Tình hình nông thôn hiện nay có thể tóm tắt như sau:

a) Do những sai lầm và tổn thất trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, lực lượng, uy tín và tác dụng lãnh đạo của Đảng và của chính quyền hiện nay trong nhiều địa phương bị giảm sút. Các tổ chức quần chúng ở nhiều nơi số lượng có tăng hơn trước, nhưng sinh hoạt còn lỏng lẻo.

Trong Đảng, nhất là ở những địa phương có nhiều sai lầm và ở các cấp tỉnh và huyện đã trải qua chỉnh đốn, vẫn còn hiện tượng tư tưởng không thống nhất, nội bộ thiếu đoàn kết.

b) Nhân dân nói chung vẫn hoang mang, lo lắng, chờ đợi. Nông dân lao động phần lớn được chia ruộng đất, nhưng tinh thần phấn khởi và tích cực sản xuất bị hạn chế. Những người bị tổn thất về danh dự chính trị và quyền lợi kinh tế thì oán trách kêu ca, những người tố sai thì lo lắng và ở nhiều nơi họ bị dư luận đả kích; một số trong những người được chia ruộng cũng chưa yên tâm làm ăn, có nơi họ đem bán hoặc phá huỷ tài sản, vì sợ phải trả lại cho chủ cũ. Nhiều sự

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *