Dế Mèn Phiêu Lưu Ký Chương 3: Hành Trình Trở Về và Bài Học Đầu Đời

Tôi bồn chồn muốn trốn đi ngay lập tức. Nằm trong lồng, tôi thấy cửa lồng chưa cài. Vậy là tôi bò ra. Nhưng ngay lúc đó, Bé và Nhớn chạy tới, kêu lên:

  • Á á!

Rồi Bé tóm gáy tôi ném vào lồng. Chưa bao giờ tôi cảm thấy nhục nhã đến thế! Từ đó, tôi bị canh giữ cẩn mật hơn. Buổi tối, tôi vẫn được lên giàn mồng tơi nhưng phải nằm trong lồng, không ai cho nghênh ngáo ngoài trời như trước – dù là nghênh ngáo với sợi chỉ buộc vào bẹn.

Tôi càng quyết tâm trốn đi. Tôi chờ đợi một cơ hội khác.

Những ngày chờ đợi thật buồn bã. Tôi buồn lắm, buồn đến chết được. Một phần vì hối hận về những lỗi lầm đã gây ra. Phần khác, tôi ngao ngán cho cuộc đời mình. Đã nửa đời trai mà chưa làm được điều gì có ích. Chỉ toàn gây ra những sai lầm. Tôi ủ rũ, chẳng buồn ăn, chẳng buồn đi, đứng cũng không buồn đứng. Suốt ngày nằm im lìm, thở dài.

Thấy tôi lờ đờ, bọn trẻ chỉ biết ra sức chăm sóc. Nhưng càng được chăm sóc, tôi càng chán ngán, càng cảm thấy mình bị nuôi béo chỉ để mua vui. Tôi ăn qua loa, nhấm nháp. Dần dần, bọn trẻ cũng chán tôi.

Trẻ con chơi cái gì cũng chóng chán. Chúng không hiểu được nỗi ốm đau và những suy nghĩ của tôi lúc đó, chúng cho rằng tôi mắc bệnh gì đó, có lẽ là đau dạ dày. Chúng bỏ vào lồng toàn cỏ thượng hạng mà chỉ thấy tôi nhếch răng, thế là sự chăm sóc cũng nhạt dần. Họ lại xách ống, dao và que nứa, hì hục đúc dế, mải mê tìm những trò chơi khác.

Thế rồi, cứ ốm nghĩ mãi, tôi đâm ra ốm thật. Tôi cảm thấy khặc khừ, ngạt mũi, nhức đầu. Mấy lần bị mang ra đánh nhau, tôi chỉ đứng yên. Anh dế bên lồng kia sang cũng không dám đánh tôi, thế là mất vui. Tôi không còn hoạt bát, khỏe khoắn như trước nữa. Mấy ngày liền tôi không ca hát, buổi sáng buổi chiều không gáy chào hoàng hôn và bình minh.

Một hôm, Nhớn thấy tôi nằm lử đử, liền bảo Bé:

  • Không phải nó đau dạ dày đâu. Thằng dế này đánh nhau nhiều quá, kiệt sức nên mắc bệnh ho lao. Chúng mình chả nên nuôi một thằng dế ốm. Thả nó đi, Bé ạ.

Bé cãi:

  • Thế thì phải đem ra ao cho vịt bầu ăn.

Tôi lạnh toát cả người:

  • Không, thế thì phí. Ta sẽ đem nó làm cúp đá bóng. Cúp đá bóng là một dế cụ. Thế mới oai!

Rồi hai đứa kéo nhau đi rủ tất cả trẻ con trong xóm hợp bọn lại đá bóng ăn giải thưởng. Cái “cúp” ấy chính là tôi. Thân tôi lại thành giải thưởng, nghĩ thật là khổ sở.

Chẳng mấy chốc đã có một lũ mười, mười lăm đứa kéo đến. Chúng rủ nhau ra ngoài bãi, đem theo tôi. Đám trẻ chia làm hai phe. Một đứa nhặt được ở vườn nào đó một quả bưởi để làm bóng.

Tôi được đặt trịnh trọng trong nắp vỏ diêm mới, trên một hòn gạch. Nhớn giao hẹn với các bạn:

  • Bên nào được ba “gôn” trước thì ăn thưởng lão dế này. A lê………toe toe toe…..

Tôi đứng thẳng, cố tỏ ra tươi tỉnh, vui vẻ như đang xem đá bóng. Không ai nghi ngờ gì cả. Thật là bọn trẻ con quá sơ ý. Cơ hội trốn thoát sắp đến rồi. Hai bên tranh nhau đá quả bóng bưởi mỗi lúc một kịch liệt hơn. Đám này đá bóng cũng xoàng. Tôi nhận xét vậy. Có cậu cứ giẫm vào bóng, ngã bổ chửng. Có cậu va vai chèn nhau rách toạc cả áo. Nhưng vẫn mải mê, hò hét vang cả bãi.

Tôi vội nhận ra mình đứng đây không phải để xem đá bóng. Trong khi bọn trẻ đang xô đẩy kịch liệt trên bãi, tôi len lén rời nắp bao diêm, bò khỏi bệ gạch vỡ. Tôi lẻn ra đầu vườn, chui vào đám cỏ rậm, rồi chuồn thẳng đến bụi dứa dại đằng xa. Xổ lồng một cái, khỏi ốm ngay! Nhanh thật!

Không biết lúc tan cuộc bóng, thấy mất cái giải thưởng quý giá, bọn trẻ có cáu kỉnh cãi nhau không.

Khi đã thảnh thơi đứng trong bụi dứa xanh mờ, tiếng hò reo của bọn trẻ đã xa lắm, không còn lo ngại gì nữa, tôi mới duỗi cánh vươn vai thở dài. Tôi gặm vội tí cỏ cho đỡ đói. Mấy bữa nay, tôi vờ ốm để đỡ phải đi chọi nhau, nên nhịn ăn, cũng mệt mỏi đi thật. No rồi, tôi phủ phục xuống chụm chân, đánh một giấc ngủ ngon.

Lúc tỉnh dậy, xung quanh và đằng xa, chỉ có sự im lặng chập chờn của buổi trưa. Lũ trẻ chắc đã về trong xóm. Tôi phân vân, nửa muốn đi chơi xa, nửa muốn về thăm nhà. Dù sao, trong mấy ngày qua, tôi đã nhận ra thế giới này bao la, không chỉ có bờ ruộng, đầm nước ở quê mình. Có lẽ trong cảnh trói buộc, người ta mới khao khát tự do. Lũ trẻ giam giữ tôi, nhưng phong cảnh non nước luôn chào đón và thúc giục tôi đi khắp thế gian. Đời trai mà không biết bay nhảy, không biết đó biết đây thì cuộc sống thật nhạt nhẽo.

Cuối cùng, tôi quyết định trở về nhà. Tôi nhớ từ ngày bị bắt, tôi đã xa nhà lâu rồi. Chắc chắn mẹ tôi đã đến thăm hang, thấy giường chiếu tan tành, hẳn người đã khóc rất nhiều. Nghĩ vậy, tôi càng nhớ và thương mẹ. Tôi là con út trong lứa sinh. Mẹ thương tôi, đã cho tôi bao nhiêu cỏ non khi đem tôi đến ở hang mới.

Tôi trở về quê hương. Tôi cũng tính rằng: sau khi về thăm mẹ, khi mẹ thấy tôi còn sống, vẫn khỏe mạnh, người an tâm rồi, tôi sẽ tính một cuộc du lịch xa xôi.

Tôi rẽ cỏ, tìm đường về…

Đường về xa xăm…

Một hôm, qua một vùng cỏ nước xanh dài, tôi nghe thấy tiếng khóc tỉ tê. Tôi lắng tai, đoán tiếng khóc ở quanh đây. Vài bước nữa, tôi gặp chị Nhà Trò ngồi gục đầu bên tảng đá cuội. Chị Nhà Trò bé nhỏ lại gầy gò, yếu đuối quá, người đầy phấn, như mới lột xác. Chị mặc áo thâm dài, đôi chỗ chấm điểm vàng, hai cánh mỏng như cánh bướm non, lại ngắn chùn chùn. Hình như cánh yếu quá, chưa quen mở, dù có khỏe cũng chẳng bay được xa. Các chị Nhà Trò vốn thuộc họ bướm, cả đời chỉ biết quẩn quanh trong bờ bụi. Nhà Trò đang khóc.

Nghe như có chuyện oan trái, tôi liền hỏi:

  • Sao em lại khóc ở đây?

Chị ngẩng đầu lên, nước mắt đầm đìa rồi cúi chào, lễ phép – các cô Nhà Trò bao giờ cũng lịch sự và mềm mại.

  • Em chào anh, mời anh ngồi chơi.

Tôi nói ngay:

  • Ngồi gì mà ngồi! Khóc cái gì?

Chị ta liền bù lu bù loa:

  • Anh ơi! Anh ơi! Hu…hu…Anh cứu em… Hu…hu

  • Ai? Ai bắt nạt em?

  • Thưa anh, bọn Nhện. Anh cứu… Hu…hu…

Tôi sốt ruột:

  • Nhện nào? Sao cứ khóc mãi thế? Kể rõ đầu đuôi thì mới biết đường mà cứu chứ!

Nhà Trò kể:

  • Năm trước, trời làm đói kém, mẹ em phải vay lương ăn của Nhện. Sau đó, mẹ em mất đi, chỉ còn lại mình em. Em ốm yếu, kiếm ăn không đủ, làm ăn chẳng ra sao, bao năm vẫn nghèo túng, nợ cũ chưa trả được. Nhện cứ nhất định bắt trả nợ. Mấy lần Nhện đã đánh em. Hôm nay bọn Nhện chăng tơ ngang đường đe bắt em, vặt chân, vặn cánh ăn thịt em.

Tôi xòe hai càng ra, bảo Nhà Trò:

  • Em đừng sợ. Hãy đi theo anh. Kẻ độc ác không thể cậy khỏe ăn hiếp kẻ yếu. Không ai được phép làm như vậy.

Tôi dắt Nhà Trò đi.

Đi một quãng, đến chỗ mai phục của bọn Nhện.

Bọn nhện đã giăng tơ công phu từ bên đường này sang bên kia, chằng chịt biết bao nhiêu tơ nhện, trùng trùng điệp điệp, một chú Muỗi Mắt nhỏ nhất cũng không chui lọt. Giữa lối đi, một anh Nhện canh gác. Hễ thấy bóng Nhà Trò là làm hiệu cho lũ Nhện nấp hai bên đường kéo ra.

Khi tôi gần tới mạng lưới, nhìn vào các khe đá xung quanh đã thấy lủng củng toàn nhện: Nhện mẹ, Nhện con, Nhện già, Nhện trẻ, Nhện nước, Nhện tường, Nhện võng, Nhện cây, Nhện đá, Nhện ma…đủ loại. Chúng đứng im như đá, trông rất hung dữ.

Tôi cất tiếng hỏi lớn:

  • Ai là kẻ cầm đầu bọn mày? Ra đây tao nói chuyện.

Từ trong hốc đá, một mụ nhện cái to nhất, cong chân nhảy ra, hai bên có hai Nhện vách nhảy kèm. Chắc đây là trùm của bọn Nhện. Trông cũng đanh đá, nặc nô lắm. Tôi quyết định phải ra oai trước. Tôi quay phắt lưng, phóng càng đạp mạnh vào đầu mụ Nhện cái một đạp. Mụ hoảng hốt, co rúm lại sợ hãi. Rồi mụ rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo, tỏ ý hối hận và sợ hãi – có lẽ mụ ta cũng chưa biết vì sao mình sợ.

Tôi thét:

  • Sao dám kéo bè kéo cánh ra bắt nạt em Nhà Trò yếu ớt thế kia? Chúng mày ăn sung mặc sướng, đứa nào cũng béo múp míp cả lượt thế kia mà còn đòi nó tí nợ đã mấy đời rồi là sao? Tao cấm chúng mày từ giờ không được đòi nợ Nhà Trò nữa. Nó bé bỏng, làm không đủ nuôi thân, phải thương nó, xóa nợ cho nó. Ở đời, thù hằn, độc ác làm gì. Chúng mày bắt nạt nó, nhưng còn có tao khỏe hơn, tao mới thử gió mấy cái đá hậu, chúng mày đã thấy đáng sợ rồi phải không?

Bọn Nhện núp phía trong cũng dạ ran và lao xao “nghe rồi ạ” rối rít trong khe đá.

Tôi ra lệnh:

  • Phá hết các vòng vây. Đốt hết giấy nợ đi.

Lũ Nhện nghe lời ngay. Cả họ nhanh nhẹn chạy ngang chạy dọc, phá các dây tơ giăng lưới. Con đường về tổ của Nhà Trò trên cành lá mua có một chiếc hoa tím phút chốc đã quang hẳn. Rồi vô số Nhện nhấp nhô, tung tăng đến, chân nắm chân Nhà Trò mà nhảy múa, hát ầm ĩ rất vui.

Họ nhà Nhện còn định mở tiệc thết tôi. Nhà Nhện thì lúc nào cũng khéo trữ thức ăn ngon. Nhưng tôi từ chối, nói rằng phải vội đi. Hẹn dịp khác sẽ qua chơi.

Tôi từ giã bọn Nhện và Nhà Trò. Chị Nhà Trò ôm vai tôi cảm động, không nỡ chia tay, cứ tiễn tôi một quãng đường dài. Tôi, trong lòng hoan hỉ vì đã làm được việc có ích đầu tiên cho đời.

Mấy hôm sau, tôi về tới quê nhà.

Cái hang bỏ hoang của tôi, cỏ và rêu xanh đã kín lối vào. Nhưng ở cuối bãi, mẹ tôi vẫn mạnh khỏe. Hai mẹ con gặp nhau, mừng quá, cứ vừa khóc vừa cười. Tôi kể lại từ đầu đến cuối những ngày qua trong may rủi và thử thách mà tôi đã trải qua. Bắt đầu từ chuyện anh Dế Choắt khốn khổ bên hàng xóm.

Nghe xong, mẹ tôi ôm tôi vào lòng, y như người ôm khi mới sinh tôi và bảo rằng:

  • Con ơi, mẹ mừng cho con đã qua nhiều hiểm nguy mà trở về. Nhưng mẹ mừng nhất là con đã rèn được tấm lòng chín chắn, thật đáng mặt làm trai. Bây giờ con muốn ở nhà mấy ngày với mẹ, rồi con đi du lịch xa, mẹ cũng bằng lòng, mẹ không áy náy gì về con đâu. Con của mẹ đã lớn rồi. Con đã khôn lớn rồi. Mẹ chẳng phải lo gì nữa.

Mẹ tôi nói rồi chan hòa nước mắt sung sướng và cảm động. Tôi nhìn ra cửa hang, nơi mới ngày nào còn trứng nước ở đây và cũng cảm thấy mình đã khôn lớn thật rồi.

Tôi ở lại với mẹ:

  • Mẹ kính yêu của con! Không bao giờ con quên được lời mẹ. Rồi mai đây con lên đường, con sẽ hết sức tu tỉnh được như mẹ mong ước cho con.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *