Tổng kết thực tiễn là một hoạt động quan trọng trong công tác nghiên cứu lý luận của Đảng, nhằm kiểm nghiệm các tri thức lý luận đã có, đồng thời thu thập, bổ sung những tri thức thực tiễn mới vào hệ thống lý luận của Đảng. Trong quá trình phát triển, Đảng ta luôn coi trọng công tác này. Đường lối của Đảng xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo kiểm nghiệm lý luận, nhờ đó đủ sức soi đường, chỉ lối, đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vậy, Thông Qua Việc Tổng Kết Thực Tiễn Rút Ra Bài Học Kinh Nghiệm Là Nhiệm Vụ Nào Của Sử Học? Bài viết này sẽ làm rõ vấn đề này.
Đổi mới là một sự nghiệp chưa có tiền lệ và thông lệ, Đảng phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để không ngừng bổ sung, phát triển lý luận. Vì vậy, công tác tổng kết thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu lý luận của Đảng. Nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xuất phát từ bài học lớn mà Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đúc kết là Đảng phải hành động theo quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn mà xây dựng đường lối, phát triển lý luận.
Tổng kết thực tiễn là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đồng thời là trách nhiệm của mỗi tổ chức đảng và đảng viên, trước hết là của những người làm công tác nghiên cứu lý luận nòng cốt – chuyên nghiệp. Tổng kết thực tiễn của mỗi tổ chức đảng ở từng cấp giúp đúc kết những kinh nghiệm, cách làm hay từ “điểm” mà nhân ra “diện”; giúp phát hiện những gương điển hình tiên tiến để giáo dục, nêu gương cho đảng viên và quần chúng; xem xét kinh nghiệm, cách làm hay của đơn vị khác mà vận dụng phù hợp vào địa phương, đơn vị mình. Tổng kết thực tiễn phục vụ cho nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận là nhiệm vụ của Trung ương Đảng, được thực hiện một cách chuyên nghiệp, thông qua những phương pháp, công cụ, quy trình đặc biệt để hình thành và phát triển đường lối, chủ trương, chính sách vĩ mô và không ngừng sáng tạo lý luận.
Nhận thức chung về tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận đổi mới của Đảng
1- Vai trò của hoạt động tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu lý luận
Tầm quan trọng đặc biệt của thực tiễn trong công tác lý luận của Đảng xuất phát từ chính vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; từ đặc điểm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để sáng tạo lý luận.
Thực tiễn là cơ sở của lý luận, bởi mọi tri thức được hình thành dù gián tiếp hay trực tiếp, đều có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn là động lực của lý luận, bởi hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, biến đổi bản thân con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện các năng lực của chính mình, trong đó có năng lực nhận thức. Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển nhận thức, đòi hỏi phải có tri thức mới, nhất là những tri thức được khái quát thành lý luận để trở lại chỉ đạo thực tiễn. Thực tiễn là mục đích của lý luận, bởi lý luận không chỉ nhằm giải thích thế giới, thỏa mãn nhu cầu nhận thức của con người, mà cơ bản hơn là để chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới. Thực tiễn là điểm khởi nguồn của lý luận và cũng là đích trở về của lý luận, nơi kiểm nghiệm tính chân lý của lý luận.
Thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận. Tri thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức. Tri thức ấy có thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách quan. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Vì vậy, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là một nguyên tắc quan trọng trong lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, có giá trị to lớn trong chỉ đạo công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Thoát ly nguyên tắc này lý luận sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, thiếu sức sống, không đủ năng lực chỉ đạo thực tiễn; hoạt động thực tiễn cũng rơi vũng lầy của chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ nghĩa giáo điều thực tiễn.
Nghiên cứu lý luận theo nghĩa rộng bao gồm từ nghiên cứu lý luận cơ bản, nghiên cứu lý luận chính trị, nghiên cứu lý luận chuyên ngành, nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn. Nghiên cứu lý luận cơ bản có đối tượng cụ thể là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu lý luận chính trị là nghiên cứu về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghiên cứu khoa học có phạm vi rất rộng, thuộc nhiệm vụ của nhiều ngành khoa học khác nhau. Tổng kết thực tiễn là một bộ phận hợp thành của công tác lý luận, bởi không có tổng kết thực tiễn thì công tác lý luận chỉ giới hạn ở địa hạt nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu thuyết minh cho cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết sẵn có. Tổng kết thực tiễn, sở dĩ tách thành một nội dung riêng được đặt trong tương quan với nghiên cứu lý luận, thậm chí Đại hội XII đã đưa lên vị trí hàng đầu, để nhấn mạnh tầm quan trọng của nó đối với sự hình thành và phát triển lý luận gắn với điều kiện cụ thể công cuộc đổi mới khi phải khắc phục tình trạng xơ cứng lý luận và xác định những phương thức tiến hành đặc thù, huy động nguồn lực đầu tư xứng đáng, khắc phục tình trạng nghiên cứu chỉ giới hạn trong sách vở, thiếu gắn kết với thực tiễn.
2- Khách thể, đối tượng, nội dung và phương pháp tổng kết thực tiễn phục vụ cho nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận
Nếu khách thể trừu tượng của hoạt động nghiên cứu lý luận phản ánh một cách gián tiếp hiện thực khách quan, biểu đạt dưới các nguyên lý, phạm trù, quy luật, khái niệm, quan điểm, đường lối, chủ trương,… thì khách thể của hoạt động tổng kết thực tiễn rất cụ thể, sống động, phản ánh trực tiếp những thuộc tính, tính chất của đối tượng tác động đến chủ thể nhận thức. Phạm vi của hoạt động thực tiễn bao gồm từ hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học (gồm cả thực nghiệm xã hội).
Công tác tổng kết thực tiễn phải bao quát khách thể rộng lớn của nó từ hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội đến hoạt động thực nghiệm khoa học, mấu chốt là phát hiện các mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và đề xuất cách thức hóa giải mâu thuẫn, thúc đẩy sự vật không ngừng phát triển. Hoạt động thực tiễn rất phong phú, công tác tổng kết thực tiễn không phải bao sân toàn bộ nhiệm vụ của các ngành khoa học, càng không được sa vào những vấn đề vụn vặt, mà chỉ tập trung ở những vấn đề căn bản nhất với mục tiêu tìm tòi, xây dựng, phát triển mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đối tượng của công tác tổng kết thực tiễn là hệ thống tri thức kinh nghiệm nảy sinh từ hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Chúng được phân biệt với đối tượng của nghiên cứu lý luận là tri thức lý luận gắn với thao tác tư duy trừu tượng để khái quát hóa, liên kết tri thức mà hình thành nên tư tưởng, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách. Ở đây, cần phân biệt giữa hoạt động tổng kết thực tiễn ở tầm lý luận với tổng kết thực tiễn thông thường.
Nếu phân chia tri thức kinh nghiệm theo phương thức phản ánh giữa khách thể với chủ thể nhận thức thì có tri thức kinh nghiệm gián tiếp và tri thức kinh nghiệm trực tiếp. Tri thức kinh nghiệm gián tiếp là kinh nghiệm nước ngoài và kinh nghiệm do lịch sử để lại. Tri thức kinh nghiệm trực tiếp là kinh nghiệm trong nước và kinh nghiệm do chủ thể nhận thức tự đúc kết được qua thực hành hoặc nghiên cứu chuyên biệt. Tổng kết thực tiễn phải hướng trọng điểm vào tổng kết kinh nghiệm trực tiếp, tức những tri thức thu được qua thực hành và kinh nghiệm trong nước.
Chủ thể tổng kết thực tiễn là cấp ủy các cấp, tùy theo tính chất, nhiệm vụ của từng cấp mà đặt ra những yêu cầu riêng cho tổng kết thực tiễn. Song, tổng kết thực tiễn ở tầm lý luận là trách nhiệm của toàn Đảng, trước hết là của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong đó bộ phận đóng vai trò chuyên trách nòng cốt là các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng…
Nội dung tổng kết thực tiễn rất phong phú, đa dạng: Đó là tổng kết những mô hình tự phát trong thực tế; tổng kết những mô hình thí điểm; tổng kết một phong trào hay cuộc vận động được hình thành từ sáng kiến của quần chúng hay khởi xướng bắt đầu từ một chỉ thị, nghị quyết, quyết định lãnh đạo, quản lý; tổng kết gương điển hình tiên tiến…
Khác với các phương pháp nghiên cứu lý thuyết phải sử dụng các thao tác trừu tượng hóa, khái quát hóa, phương pháp tổng kết thực tiễn phải tìm hiểu tính cụ thể trực tiếp thuộc tính, tính chất của sự vật, hiện tượng. Theo đó, các phương pháp sau đây thường được sử dụng phổ biến phục vụ cho tổng kết thực tiễn: quan sát, điều tra, thực nghiệm, phân tích và tổng kết kinh nghiệm, phương pháp chuyên gia.
Hoạt động tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận đổi mới của Đảng hiện nay
1- Kết quả đổi mới công tác tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận thời gian qua
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận. Nhờ thường xuyên tổng kết thực tiễn mà đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng luôn phù hợp với thực tiễn, đủ năng lực chỉ đạo thực tiễn, được kiểm chứng bằng những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam.
Chính vì vậy, trong công tác lý luận, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ và đề cao vai trò, vị trí của hoạt động tổng kết thực tiễn. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (tháng 3-2002) “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” đã khẳng định phải “Coi trọng việc tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu lý luận và trong hoạt động của các cấp ủy đảng; coi tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành; gắn nghiên cứu thực tiễn Việt Nam với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại”. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển” phải “đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.
Nội dung tổng kết thực tiễn những năm qua rất phong phú, đa dạng với nhiều cấp độ khác nhau, từ những “đại vấn đề” đến các mô hình cụ thể. Qua hơn 30 năm đổi mới, nhìn tổng thể, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng rõ hơn, trong đó có đóng góp quan trọng của hoạt động tổng kết thực tiễn.
Trách nhiệm của cấp ủy đảng các cấp, các ngành trong tổng kết thực tiễn ngày càng được quy định rõ hơn. Trên cơ sở thẩm quyền được phân định, cấp ủy đảng các cấp ra sức kiện toàn các cơ quan tham mưu có nhiệm vụ chuyên trách nòng cốt trong tổng kết thực tiễn, xây dựng kế hoạch tổng kết các nội dung theo chương trình làm việc toàn khóa.
Đội ngũ cán bộ tổng kết thực tiễn ngày càng được tăng cường về số lượng, nâng cao hơn về chất lượng. Có thể thấy, các lực lượng sau đây tham gia tổng kết thực tiễn: 1- Người đứng đầu và cấp ủy đảng các cấp; 2- Đội ngũ các nhà nghiên cứu lý luận; 3- Đội ngũ chuyên gia, chuyên viên cao cấp ở các ban đảng Trung ương và địa phương.
Phương pháp, cách thức tiến hành tổng kết thực tiễn ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Có thể thấy, các cách thức sau đây được áp dụng khá phổ biến trong những năm qua phục vụ cho tổng kết thực tiễn: 1- Tổng kết thực tiễn được lồng ghép trong nghiên cứu lý luận cơ bản; 2- Tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu khoa học; 3- Tổng kết thực tiễn được thực hiện thông qua đánh giá các mô hình thí điểm trong thực tế; 4- Tổng kết thực tiễn được thực hiện trong xây dựng các đề án trình Trung ương, Bộ Chính trị, Chính phủ, Quốc hội,…; 5- Tổng kết các gương điển hình tiên tiến, cách làm hay, mô hình mới.
Phối hợp giữa các chủ thể và đối tác tham gia trong tổng kết thực tiễn ngày càng chặt chẽ hơn. Đáng chú ý là phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu lý luận, khoa học chuyên nghiệp với các cơ quan tổ chức thực tiễn, giữa các ban/ngành Trung ương và các tỉnh/thành ủy, giữa cơ quan tư vấn và cơ quan hoạch định chính sách.
Môi trường cho tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học đã được cải thiện nhất định. Đối với những vấn đề lý luận trước đây được xem là cấm kỵ, còn nhận thức khác nhau thì Đảng đã mạnh dạn cho phép thực hiện thí điểm rồi tổng kết thực tiễn.
2- Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được nêu trên, cần phải thẳng thắn thấy rằng, tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu lý luận vẫn còn không ít hạn chế. Nhìn chung, hoạt động tổng kết thực tiễn chưa được tiến hành một cách chuyên nghiệp, thiếu đội ngũ chuyên trách đủ số lượng và chất lượng cần thiết phục vụ cho công tác này. Tổng kết thực tiễn là hoạt động khoa học – thực tiễn đặc thù nhưng còn thiếu phương pháp luận và khung lý thuyết xác định làm cơ sở cho cấp ủy các cấp chủ động tiến hành.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều, nhưng tựu trung gồm: 1- Chủ nghĩa giáo điều về mặt lý luận tồn tại trong một thời gian dài; 2- Chủ nghĩa kinh nghiệm là căn bệnh phổ biến dẫn tới coi thường lý luận; 3- Cấp ủy nhiều nơi chưa quan tâm đúng mức đầu tư nhân lực, vật lực và thời gian cho tổng kết thực tiễn; 4- Thiếu lực lượng chuyên gia làm nòng cốt cho tổng kết thực tiễn và đào tạo, hướng dẫn, tập huấn phương pháp tổng kết thực tiễn.
Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận đổi mới của Đảng thời gian tới
1- Bối cảnh mới và định hướng tổng kết thực tiễn
Sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đang bước vào một chặng đường phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Yêu cầu tổng kết thực tiễn phục vụ cho nghiên cứu lý luận thời gian tới rất rộng lớn, song cần tập trung vào mấy định hướng sau đây:
Trên lĩnh vực kinh tế: Đổi mới mô hình tăng trưởng, con đường và giải pháp đưa nước ta thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường: Xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới, phát triển công nghiệp văn hóa; xây dựng hệ giá trị chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam thời đại mới.
Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Thế bố trí chiến lược trong điều kiện đối tượng, đối tác và phương thức chiến tranh thay đổi; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới.
Trên lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng.
2- Những vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả tổng kết thực tiễn phục vụ cho nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận đổi mới của Đảng thời gian tới
Để khắc phục những hạn chế nêu trên và tăng cường công tác tổng kết thực tiễn ngang tầm với đòi hỏi nhiệm vụ công tác lý luận trong tình hình mới theo tinh thần Đại hội XII của Đảng, thời gian tới cần chú ý mấy vấn đề sau đây:
Một là, nâng cao hơn nhận thức của cấp ủy các cấp đối với công tác tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu lý luận và hoạt động chỉ đạo, điều hành.
Hai là, định hình khung lý thuyết và phương pháp khoa học phục vụ hoạt động tổng kết thực tiễn trên nền tảng chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Ba là, hoàn thiện các thể chế, cơ chế và điều kiện hóa cho tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu lý luận.
Bốn là, đa dạng hóa phương thức tổng kết thực tiễn, gắn tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học.
Năm là, tăng cường năng lực tổng kết thực tiễn cho cấp ủy các cấp và xây dựng đội ngũ chuyên gia làm nòng cốt trong tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận.
Tóm lại, thông qua việc tổng kết thực tiễn rút ra bài học kinh nghiệm là nhiệm vụ quan trọng của công tác nghiên cứu lý luận, giúp Đảng ta không ngừng hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.