Đã có ý kiến cho rằng: “thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần. Do đó không đơn giản, mà cũng không thần bí thiêng liêng”. Mỗi bài thơ là một đứa con tinh thần do nhà thơ sáng tạo ra, là sự kết tinh của tư tưởng và cảm xúc. Cảm xúc càng mạnh mẽ, mãnh liệt thì bài thơ càng có giá trị. Vì vậy, thơ chính là hiện thân của cảm xúc. Như Diệp Tiến đã từng nói: “thơ là tiếng lòng”. Bàn về điều này, nhà thơ Bằng Việt đã cho rằng “Tiêu Chuẩn Vĩnh Cửu Của Thơ Ca Là Cảm Xúc”, và bài thơ “Vội vàng” của thi sĩ Xuân Diệu chính là minh chứng rõ nét.
Huy Trực đã từng nói: “thơ là rượu tựa thế gian”. Rượu phải say, men rượu làm người ta say, và chính cái cảm xúc trong thơ làm đắm chìm lòng người. Đó chính là tiêu chuẩn vĩnh cửu để đánh giá thơ, như Bằng Việt đã nhận định. Tiêu chuẩn là thước đo chuẩn mực để đánh giá một đối tượng. Có nhiều loại tiêu chuẩn khác nhau, và các tiêu chuẩn có thể thay đổi theo thời gian. Thế nhưng, “tiêu chuẩn vĩnh cửu” là cái thước đo chuẩn mực có giá trị bất biến, đúng với mọi thời đại.
Cảm xúc chính là những cung bậc tình cảm của con người. Bản chất ý kiến của Bằng Việt là sự khẳng định thước đo để đánh giá giá trị tác phẩm thơ ca ở mọi thời đại, là yếu tố tình cảm. Từ xưa đến nay, cảm xúc luôn là kim chỉ nam cho mỗi bài thơ. Chỉ có cảm xúc chân thành mới níu giữ trái tim người đọc. “Bài thơ chính là tâm hồn” – M. Gorki. Nói tiêu chuẩn vĩnh cửu của thơ ca là cảm xúc quả không sai, bởi đó chính là sự xuất phát từ đặc trưng của thơ ca: thơ là tiếng nói của tình cảm. Nếu không có cảm xúc, người nghệ sĩ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay, ngôn từ chỉ là những xác chữ vô hồn. Nhiệm vụ của người sáng tác thơ là phải thổi vào thơ những cảm xúc chân thành. Như Ngô Thì Nhậm đã nói “thi sĩ phải xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần”.
Thơ là người thư ký trung thành của trái tim, văn học phản ánh đời sống của con người. Với thơ ca, cuộc sống không chỉ là hiện thực xã hội bên ngoài mà còn là đời sống tâm hồn, tình cảm phong phú của chính nhà thơ, không phải những lời giáo huấn khô khan, những triết lý khó hiểu. Thơ cũng là hiện thân của cuộc đời, nhưng với những cảm xúc của nhà thơ, nó trở thành những bản nhạc đi vào tâm trí người ta nhẹ nhàng và du dương. Như Xuân Diệu đã từng nhận định: “thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. Cảm xúc trong thơ cũng không phải thứ cảm xúc nhàn nhạt, đó là tình cảm ở mức độ mãnh liệt nhất, thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút sáng tác.
Nhà thơ phải sống thật sâu với cuộc đời mới có thể viết lên được những vần thơ có giá trị của sự trải nghiệm. Như Tố Hữu đã từng nói: “thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”.
Nói thơ có tiêu chuẩn vĩnh cửu luôn là cảm xúc, bởi còn xuất phát từ quy luật tiếp nhận văn học, trong đó có thơ ca. Bạn đọc tìm đến với thơ là tìm đến tiếng nói đồng điệu, đi tìm hồn mình trên trang viết của mỗi nhà thơ. Như Tố Hữu: “thơ là một điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu”. Vì vậy, nếu những tình cảm được bộc lộ trong thơ không chân thành, sâu sắc, ám ảnh, thì sẽ không thể tạo được những sự đồng điệu ở tác giả, đồng nghĩa với việc thơ sẽ thiếu sức sống. Với tất cả những lý do trên, cảm xúc chính là yếu tố chính để tạo nên một tác phẩm thơ hay đích thực, tồn tại mãi với thời gian. Và bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đó.
Xuân Diệu, một nhà thơ lớn, có đóng góp đáng kể trong phong trào Thơ mới, được Hoài Thanh đánh giá là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Thơ của ông nồng nàn, tha thiết, khao khát giao cảm với đời một cách mãnh liệt. Nhưng bên cạnh đó cũng là một sự hoài nghi, trăn trở, hay sự buồn bã, thậm chí là cô đơn. Thơ của ông luôn giục giã, cuống quýt người đọc về lối sống tận hưởng, tận hiến. Và “Vội Vàng”, trích từ tập “Thơ thơ”, là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông trước Cách mạng. Đó là một cách cảm, cách nghĩ mới nhất, mà chưa tìm thấy ở bất kỳ một bài thơ nào, một giai đoạn nào.
Ấn tượng đầu tiên của độc giả về bài thơ là mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt tuôn trào với một cuộc sống đến thiết tha cuồng nhiệt. Ngay mở đầu bài thơ đã cho ta cảm thấy được điều đó:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Tắt nắng và buộc gió vốn là những công việc bất biến của tạo hóa. Thế mà giờ đây, Xuân Diệu muốn tước đoạt quyền tạo hóa đó, muốn làm thay công việc của ông trời – một ước muốn táo bạo, ngông cuồng, phi lý, nhưng lại khẳng định cái tôi sâu sắc, mãnh liệt. Cái tôi muốn tước quyền tạo hóa, muốn tắt nắng, buộc gió để lưu lại mãi hương sắc của trần gian, và đó còn là ước muốn của một trái tim yêu đời mãnh liệt, thiết tha.
Vậy tại sao Xuân Diệu lại có một ước muốn như vậy? Điều đó đã được tác giả lý giải bằng một bức tranh của thế giới xung quanh, như một thiên đường trên mặt đất với cảm xúc say mê bằng cặp mắt xanh non biếc dờn. Xuân Diệu đã đem đến cho người đọc một bữa tiệc trần gian, mà ở đó cái gì cũng đẹp, cũng xuân, cũng non mơn mởn, tình tứ quyến rũ người đọc:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”
Chưa bao giờ trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra sinh động như thế. Nó là sự hiện hữu của từng chi tiết: đó là ong bướm của tuần tháng mật, đó chính là lúc nó say mê tìm hoa, hút nhị, bay nhẹ nhàng trên những cánh hoa mỏng manh, cho ta một cái nhìn thích thú. “Tuần tháng mật” như tuần trăng mật của người đời – đó là lúc đôi lứa hạnh phúc nhất, say đắm nhất. Qua đây, ta cũng thấy được cái nhìn của Xuân Diệu về một cuộc sống say mê và mong muốn hạnh phúc. Tiếp đó là hoa của đồng nội xanh rì – trên cánh đồng xanh một màu xanh non mát lành là những bông hoa mỏng manh kích thích thị giác của ta. Rồi đến lá của cành tơ phất phơ trước gió, cành tơ tức là cành non.
Cái nhìn của Xuân Diệu chỉ hướng về những cái gì đó xanh tươi nên cành lá cũng thật đẹp và sống động. Trên cái nền như tranh thêu ấy, cất lên tiếng hát du dương của yến anh như một khúc tình si, càng khiến cho ta càng thêm say đắm, thêm mơ màng. Một buổi sớm, ánh sáng như đôi hàng mi của người con gái thật đẹp, quyến rũ, và càng hấp dẫn hơn khi có thêm thần Vui hằng ngày gõ cửa như mời gọi nhà thơ, mời gọi mọi người. Và để cho độc giả thấy tháng giêng quyến rũ ra sao, Xuân Diệu đã viết: “tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Ở đây, tác giả không hưởng thụ thiên nhiên bằng thị giác, bằng thính giác nữa, mà hưởng thụ bằng vị giác “ngon”. Đặc biệt hơn, tháng giêng lại như cặp môi gần của một người thiếu nữ đương xuân đang tràn trề tình yêu và tuổi trẻ. Thơ xưa lấy thiên nhiên làm vẻ đẹp, đó là chuẩn mực của con người, như Nguyễn Du đã từng viết:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
(Truyện Kiều)
Nhưng ở đây lại khác, Xuân Diệu lại lấy con người làm vẻ đẹp cho thiên nhiên. Tháng giêng của mùa xuân không sao kể xiết, chỉ có thể nói bằng cách quy về tình cảm con người để tạo sự hữu hình, gần gũi với độc giả. Xưa nay ta cứ nghĩ Thiên đường ở một nơi rất xa xôi như cõi niết bàn, nhưng bằng một cặp mắt yêu đời, yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời, với cuộc sống, nên Xuân Diệu đã chỉ rõ cho chúng ta thấy Thiên đường ở không xa, nó ở ngay trong cuộc sống. Điều quan trọng là ta có biết hưởng thụ nó không. Chắc vì mùa xuân đẹp nên trong Xuân Diệu lúc nào cũng là xuân chăng?
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!”
Một cảm giác thật mới mẻ nhưng cũng thật đúng đắn, Xuân đương tới tức là nó chưa tới mà đã cảm nhận nó đương qua, xuân còn non mà đã cảm nhận nó sẽ già. Đúng thật vậy, bước đi của thời gian sẽ phá hủy mọi thứ và để lại sau đó là một quá khứ. Xuân Diệu đã bộc lộ nỗi lòng của mình. Thế nhưng, lượng trời chật, không cho kéo dài tuổi trẻ nhân gian. Ở đây, nhà thơ đã lấy cái hữu hạn để so sánh với cái vô cùng, vô tận – đó là những năm, thậm chí có thể tính bằng tháng của tuổi trẻ con người, với thời gian của vũ trụ bất biến, lâu dài. Ông quan niệm rằng tuy xuân tuần hoàn, nhưng tuổi trẻ không hai lần thắm lại, một giây phút trôi đi là đang từ biệt một quãng đời của mình. Điều này khác với quan niệm của nhà nho xưa khi cho rằng “thời gian là một chu trình tuần hoàn, khép kín đêm hết, ngày sang, đông qua xuân tới”. Con người là một phần của thiên nhiên vũ trụ, vì vậy họ không sợ tuổi già và cái chết, luôn thanh thản, ung dung, tự tại. Cách suy nghĩ về thời gian tuyến tính của Xuân Diệu quả là một cách nhìn mới, sáng tạo mới và cảm nhận mới.
Với cái cách nhìn đầy mất mát như vậy, Xuân Diệu đang vui bỗng nhiên lại nhường chỗ cho sự nghi ngờ và buồn bã:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt;
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ơi chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mưa chưa ngả chiều hôm.”
Còn đối với thiên nhiên, cảnh vật dường như cũng nhuộm màu sắc buồn bã, sợ hãi giống Xuân Diệu. Nguyễn Du đã từng viết:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
(Truyện Kiều)
Và cảnh trong thơ cũng vậy: Nhà thơ đã cảm nhận mùi chia lìa ở khắp mọi nơi, trong mọi vật, mọi cảnh. Dường như Xuân Diệu thức tỉnh về thời gian trong tâm tư, tình cảm của con người, nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia lìa. Với bước đi của thời gian, thời tiễn biệt than thầm khắp núi sông, nỗi oán trách của con gió xinh trong lá biếc, nỗi sợ hãi của bầy chim đang reo vui. Mọi thứ, mọi vật đang sợ bước đi của thời gian. Và từ đó, nhà thơ đã hiểu ra, và thúc giục mọi người rằng “mau đi thôi! Mưa chưa ngả chiều hôm”.
Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát vọng vượt ra thực tại đáng buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như dợn ngợp của sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên tìm về ý nghĩa của sự sống khi mùa xuân chưa hết. Với những điều đó, nên Xuân Diệu khát khao giao cảm trực tiếp và tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống trần thế:
“Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn;
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu;
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều;
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm,
Cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ, nhưng đi liền với cái cảm giác hành động ôm, riết, say, hôn, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn… cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất từ thái độ. Ban đầu còn chút e dè đến thái độ và Vội vàng có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thu vào đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống. Sống thành thật với chính mình, sống hết mình, khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời. Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn còn nguyên sức sống, dồi dào của tuổi 20:
“Trong hơi thở trót dâng trời đất,
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư.”
(Không đề)
Bên cạnh nội dung mới mẻ và sâu sắc, tác giả đã lựa chọn hình thức nghệ thuật phù hợp để bộc lộ cảm xúc. Thể thơ tự do với các dòng thơ dài ngắn, không đều nhịp, thay đổi liên tục, phù hợp diễn tả cảm xúc dâng trào, sôi nổi của thi sĩ. Bài thơ có cấu trúc theo lối kết luận, vừa có sự hấp dẫn của cảm xúc mãnh liệt, cháy bỏng, vừa logic chặt chẽ. Ngôn ngữ thơ vừa chính xác, vừa mới mẻ, táo bạo, sử dụng nhiều động từ mạnh, tính từ miêu tả, kết hợp với các biện pháp tu từ như so sánh, điệp từ, liệt kê, bút pháp tương giao… Ngoài ra, hình ảnh thơ mới lạ, gợi cảm, tất cả làm nên sự thành công của bài thơ.
Như vậy, qua bài thơ “Vội vàng”, ta thấy ý kiến của Bằng Việt hoàn toàn đúng đắn. Nó không chỉ đúng với mọi thời đại, mọi dân tộc, mà còn đúng với mọi hình thức. Bằng Việt chỉ đề cao cảm xúc, chứ không hề tuyệt đối hóa vai trò của cảm xúc, coi nhẹ tài năng của người cầm bút. Nếu chỉ có cảm xúc tuôn trào mà không có tài năng thơ ca đủ chín độ, câu chữ tứ thơ non nớt, vụng về, thì cũng không thể có thơ hay và cảm xúc của thi sĩ không thể chuyển tải trọn vẹn đến người đọc. Ý kiến của Bằng Việt có giá trị với cả hoạt động sáng tác và tiếp nhận thơ ca. Thi sĩ trước hết phải có tâm hồn giàu cảm xúc, sống sâu sắc, trọn vẹn với từng khoảnh khắc cuộc đời, để có thể có những cảm xúc mãnh liệt, dồi dào trên mỗi trang thơ:
“Có những phút ngã lòng,
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy.”
(Thơ đề trên Thơ)
Còn độc giả đến với thơ ca trước hết cần đến lòng mình để cảm nhận những nỗi niềm tâm sự người nghệ sĩ gửi vào trong trang viết. “Vội vàng” của thi sĩ Xuân Diệu là tác phẩm hay, minh chứng thuyết phục cho ý kiến của Bằng Việt, với một dòng cảm xúc dạt dào, lai láng, “vội vàng” như một khúc ca thúc giục mọi người sống nhanh, sống có ý nghĩa, để sau này nhìn lại ta không phải nuối tiếc về những năm tháng đã sống hoài, sống phí. Có lẽ đây sẽ là nguyên nhân khiến “Vội vàng” đi vào lòng người đọc mọi thời đại, và có ý nghĩa bây giờ và cả mai sau.