Tình đồng chí, đồng đội là một trong những phẩm chất cao đẹp của người lính cách mạng. Để hiểu sâu sắc hơn về điều này, chúng ta có thể liên hệ đến những vần thơ thấm đẫm tình người:
“Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài”
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Đoạn thơ trên gợi lại hình ảnh những người lính từ khắp mọi miền đất nước, với những hoàn cảnh khác nhau, cùng chung lý tưởng mà tập hợp lại. Tình đồng chí nảy sinh từ những ngày đầu bỡ ngỡ, khi họ còn chưa quen súng, chưa thuộc hết các bài quân sự.
Khi phân tích câu thơ đặc biệt “Đồng chí!”, chúng ta không thể không liên hệ đến định nghĩa về đồng chí của chính tác giả Chính Hữu:
“56 ngày đêm bom gầm, pháo dội
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội
Đồng đội ta
Là hớp nước uống chung
Nắm cơm sẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết”
(Giá từng thước đất – Chính Hữu)
Định nghĩa này không chỉ là lời giải thích đơn thuần, mà còn là sự trải nghiệm, sự thấu hiểu sâu sắc về tình đồng đội trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Đồng đội là người cùng chia sẻ gian khổ, hy sinh, là người mà ta có thể tin tưởng, dựa vào.
Khi nói đến thái độ lên đường mạnh mẽ, dứt khoát của người lính, ta lại nhớ đến câu thơ:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Sự dứt khoát, không luyến tiếc thể hiện ý chí quyết tâm của người lính, sẵn sàng gác lại tình riêng để lên đường chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Khi phân tích đến nỗi nhớ của người lính, chúng ta có thể liên tưởng đến những câu thơ của Hồng Nguyên:
“Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, đặc biệt là hình ảnh người vợ trẻ tần tảo sớm khuya, là động lực để người lính vững vàng tay súng, chiến đấu vì một tương lai tươi sáng hơn cho gia đình và đất nước.
Nói về sự hoành hành của những trận sốt rét rừng, chúng ta có thể liên hệ:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hay
“Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”
(Lên cấm sơn – Thôi Hữu)
Hoặc
“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”
(Nguyễn Đức Mậu)
Những câu thơ này khắc họa chân thực những khó khăn, gian khổ mà người lính phải đối mặt trong cuộc chiến, đặc biệt là những căn bệnh nguy hiểm nơi rừng thiêng nước độc.
Khi nói đến hoàn cảnh chiến đấu khó khăn, thiếu thốn, ta có thể liên hệ:
“Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh”
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Hay:
“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Những câu thơ này cho thấy sự thiếu thốn về vật chất mà người lính phải chịu đựng, nhưng đồng thời cũng thể hiện tinh thần tương thân tương ái, sẻ chia khó khăn của họ.
Nói về những cái rét “chung chăn”, Thâm Tâm cũng đã từng viết trong “Chiều mưa đường số 5”:
“Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội đã về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Tấm mối tình Việt Bắc…”
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
(Lên Tây Bắc – Tố Hữu)
Những vần thơ đã khắc họa thành công vẻ đẹp của người lính cách mạng, không chỉ là vẻ đẹp ngoại hình mà còn là vẻ đẹp tâm hồn, ý chí kiên cường vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để bảo vệ Tổ quốc. Tình đồng chí chính là nguồn sức mạnh to lớn giúp họ làm nên những chiến công hiển hách.