Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thử thách. Một trong những thách thức lớn nhất là sự hiện diện của quân đội các nước, đặc biệt là quân Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) ở miền Bắc Việt Nam. Vậy, quân THDQ vào nước ta nhằm mục đích gì?
Để hiểu rõ mục đích này, cần đặt nó trong bối cảnh lịch sử phức tạp lúc bấy giờ. Sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, theo thỏa thuận Potsdam, quân đội THDQ (cụ thể là quân đội của Tưởng Giới Thạch) có nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật Bản tại khu vực phía Bắc vĩ tuyến 16 của Việt Nam. Tuy nhiên, mục đích thực sự của việc này phức tạp hơn nhiều so với nhiệm vụ được giao.
Thực tế, việc quân THDQ vào Việt Nam không chỉ đơn thuần là giải giáp quân Nhật. Chính quyền Tưởng Giới Thạch mang theo nhiều mục tiêu chính trị và lợi ích riêng.
-
Ủng hộ các lực lượng phản động: Quân THDQ đã tạo điều kiện cho các tổ chức phản động người Việt như Việt Quốc, Việt Cách hoạt động, gây rối trật tự xã hội và chống phá chính quyền cách mạng. Họ tìm cách lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo, dựng lên một chính phủ thân Tưởng.
-
Gây áp lực kinh tế và chính trị: Sự hiện diện của quân THDQ gây ra gánh nặng lớn về kinh tế cho Việt Nam. Họ đòi hỏi cung cấp lương thực, thực phẩm, phương tiện đi lại, làm suy yếu nền kinh tế vốn đã kiệt quệ sau chiến tranh. Đồng thời, họ gây áp lực chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, đòi hỏi những nhượng bộ về chủ quyền.
-
Thực hiện âm mưu thôn tính: Một số sử gia cho rằng, chính quyền Tưởng Giới Thạch nuôi tham vọng biến Việt Nam thành một vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Việc đưa quân vào Việt Nam là một bước trong kế hoạch này. Họ muốn kiểm soát Việt Nam về mặt chính trị, kinh tế và quân sự, biến Việt Nam thành một quốc gia phụ thuộc vào Trung Quốc.
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những sách lược khôn khéo để đối phó. Một mặt, ta chủ trương hòa hoãn, tránh xung đột trực tiếp với quân THDQ. Mặt khác, ta tăng cường xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền cách mạng, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Ngày 28/2/1946, chính quyền Tưởng Giới Thạch và Chính phủ Pháp ký kết Hiệp ước Pháp – Hoa, trao cho thực dân Pháp quyền thay thế quân đội Tưởng tước vũ khí quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam và Pháp thỏa thuận nhượng lại một số quyền lợi về kinh tế. Điều này cho thấy, chính quyền Tưởng Giới Thạch sẵn sàng bán rẻ quyền lợi của Việt Nam để đổi lấy lợi ích cho mình.
Nhận thấy nguy cơ từ cả Pháp và Tưởng, Đảng ta chủ trương “hòa để tiến”. Chỉ thị Tình hình và chủ trương ngày 3/3/1946 nhấn mạnh việc “biết mình biết người” để đưa ra chủ trương đúng đắn, đồng thời không ngừng chuẩn bị cho kháng chiến.
Chủ trương “hòa để tiến” thể hiện rõ nhất qua việc ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 giữa Việt Nam và Pháp. Hiệp định này cho phép quân Pháp trở lại miền Bắc Việt Nam, thay thế quân THDQ. Đổi lại, Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do.
Việc ký kết Hiệp định Sơ bộ là một thắng lợi ngoại giao quan trọng của Việt Nam. Nó giúp ta loại bỏ được một kẻ thù nguy hiểm là quân THDQ, đồng thời có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp sau này.
Sau Hiệp định Sơ bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nỗ lực đàm phán với Pháp, nhưng không thành công. Ngày 14/9/1946, Người ký Tạm ước với Pháp, tiếp tục nhượng bộ để cứu vãn hòa bình.
Tuy nhiên, những nỗ lực hòa bình của Việt Nam đã không thành công. Thực dân Pháp vẫn quyết tâm xâm lược Việt Nam. Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Như vậy, có thể thấy rằng, việc quân THDQ vào Việt Nam mang nhiều mục đích phức tạp, không chỉ đơn thuần là giải giáp quân Nhật. Chính quyền Tưởng Giới Thạch đã lợi dụng cơ hội này để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, ủng hộ các lực lượng phản động, gây áp lực kinh tế và chính trị, thậm chí nuôi âm mưu thôn tính Việt Nam. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do của Tổ quốc.