Nhịp Thơ: Linh Hồn Của Ngôn Ngữ

Nhịp Thơ không chỉ là yếu tố kỹ thuật mà còn là linh hồn, là hơi thở của mỗi tác phẩm. Để thực sự hiểu và cảm nhận được nhịp thơ, người đọc cần rèn luyện khả năng cảm thụ, không nhất thiết phải thông qua âm nhạc, bởi âm nhạc đôi khi lại dễ dẫn đến sự nhầm lẫn khi cho rằng giai điệu là yếu tố quan trọng nhất.

Trong thơ Việt Nam truyền thống, nhịp điệu chủ yếu là nhịp đôi: một hai, một hai. Thơ lục bát, thơ Đường luật đều tuân theo quy luật này. Trong thơ bảy chữ, nhịp điệu thường là hai, hai, ba. Tuy nhiên, những câu bát trong thơ lục bát có nhịp lẻ lại là một điểm đặc biệt cần được chú ý.

Bước sang Thơ Mới, nhịp thơ có sự thay đổi rõ rệt. Sự xuất hiện của thơ hai chữ, năm chữ, sáu chữ, chín chữ, mười hai chữ, và thơ tự do không vần điệu đã tạo nên một diện mạo mới cho thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta sẽ tập trung vào hai thể thơ có vần đặc trưng nhất, thể hiện một quan niệm mới về thơ, dù vẫn giữ nhiều liên hệ với truyền thống.

Nhịp lẻ của câu bát trong lục bát trước đây, vốn được coi là bất thường, đã trở thành một đặc điểm quan trọng của thơ tám chữ từ thời Thơ Mới. Ví dụ, trong đoạn thơ nổi tiếng “Vội vàng” của Xuân Diệu, hầu hết các câu đều ngắt nhịp sau từ thứ ba:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

(Câu “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” có thể gây phân vân về nhịp điệu, nhưng vẫn nghiêng về nhịp lẻ. Trong thơ tám chữ, nhịp 4-4 cần được đặc biệt lưu ý).

Trong khi đó, thơ bảy chữ của Xuân Diệu lại mang một nhịp điệu khác:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng

Về cơ bản, có thể nói rằng thơ bảy chữ trong thơ Việt Nam thường chia nhịp 4-3, trong khi thơ tám chữ thường chia nhịp 3-5. Thơ bảy chữ có xu hướng tạo cảm giác kéo dài, còn thơ tám chữ lại hướng đến sự ngắn gọn.

Để hiểu sâu hơn về nhịp thơ, chúng ta sẽ phân tích bài thơ “Lời ca đồng thiếp” của Đinh Hùng, một nhà thơ mà tôi cho là đạt đến đỉnh cao về nhịp điệu.

Lời ca đồng thiếp

[1] Đêm thiêng vừa tỉnh giấc
Nửa chiêm bao lệ nhòa
Hỡi ơi! Người đã qua
Hờn oan vào cung bậc
Rỏ máu trên bình hoa
Hồn tự thuở xa nhà
Chốn ăn nằm bất trắc
Đường u linh huyền mặc
Bơ vơ bóng thuyền ma
Ôi thể phách trăng tà
Hư vô khơi lồng ngực
Phấn hương nào thổn thức
Sớm thoát trên làn da
Tâm linh đừng huyễn hoặc
Ta lát lên lầu ngà

[2] Anh đã chết trong lời ca đồng thiếp
Khi ngón tay Em đưa hướng linh kỳ

[3] Sương khói bạc chiều rừng
Thành quách bến Sông Mê
Những ngọn đèn hồn lênh đênh trôi về kiếp trước
Ôi cửa động mù sương mưa bay tiềm thức
Anh theo em đi hết chuyến luân hồi
Xanh đáy mắt hư vô
Hồng vực thẳm làn môi
Quanh thể xác chập chờn cơn sóng dữ

  • Hãy cho anh! Hãy cho anh tiếng chim xuân thêu vàng giấc ngủ
    Những tiếng chim ca thần thoại ngày mai
    Giấc ngủ dâng hoa trên ảo tưởng hình hài
    Anh sẽ hồi sinh trong màu nắng nhạt

[4] Và anh sẽ khóc! Anh sẽ khóc muôn đêm
Khi thời gian lắng vào khúc hát
Em sẽ trở về trong mỗi âm thanh
Mỗi kiếp đi qua còn nguyên vẹn bóng hình

(Bài thơ được chia thành bốn “khúc” để tiện phân tích, sự phân chia này chỉ mang tính tương đối).

Về nguyên tắc, ta luôn có thể hình dung ra một câu chuyện với đầy đủ mở đầu, kết thúc và diễn tiến. Điều này phù hợp với cách lý trí con người tạo ra các câu chuyện. “Lời ca đồng thiếp” kể về một lần nhập đồng, một nghi thức nhằm kết nối con người với thế giới của các âm hồn.

[1] Một người đang ngủ bỗng thức giấc, khóc trong mơ. Khung cảnh là đêm khuya trăng tà, và hồn ma đã đến. [2] Nghi lễ bắt đầu, với sự “chết” của “anh”; trong thơ Đinh Hùng, cái chết thường là khởi đầu, là cánh cửa mở ra. “Ngón tay Em” (có thể là hồn ma) chỉ về phía “linh kỳ”, báo hiệu nghi thức thực sự bắt đầu. [3] Khung cảnh giao thoa giữa hai thế giới được dựng lên, với những hình ảnh và màu sắc (xanh và hồng). Cuối nghi lễ, “anh sẽ hồi sinh”: người nhập đồng “chết” trong nghi lễ và sống lại khi trời sáng. [4] Trí tưởng tượng hướng đến các nghi lễ tương lai, nhấn mạnh yếu tố âm thanh (“Lời ca đồng thiếp”). Những âm thanh này thiêng liêng, làm thời gian dừng lại và khiến “Em” trở về.

Bài thơ “Lời ca đồng thiếp” gợi nhớ đến thơ hát nói xưa, đặc biệt là trong cấu trúc và sự đột khởi của những câu thơ ngắn dài không đều nhau. Thơ Mới có một tiền thân quan trọng là hát nói, ca trù. Hát nói là điểm trung chuyển để thơ Đường luật, ngũ ngôn cổ phong có thể biến thành thơ hiện đại.

Trong bài thơ, [2] gồm hai câu thơ đặc biệt:

Anh đã chết trong lời ca đồng thiếp
Khi ngón tay Em đưa hướng linh kỳ

Câu thứ nhất tuân theo nhịp 3-5 của thơ 8 chữ (anh đã chết/trong lời ca đồng thiếp), nhưng câu thứ hai lại đổi nhịp 4-4 (khi ngón tay em/đưa hướng linh kỳ). Từ đây, bài thơ thực sự đi vào nhịp nội tại, không tuân theo quy tắc nào. Đây là nhịp của linh hồn: Đinh Hùng đi theo nhịp của một cái gì đó khác, nương theo rung động và uốn lượn của một cõi được tạo ra bởi, cho và trong tâm hồn. Sự kỳ diệu của thơ ca nằm ở chỗ nhịp của tâm hồn được thể hiện một cách chân thực.

Sự kỳ diệu của đúng nhịp là khi nó đúng, ta không còn nhận thức về nó nữa. Nếu thoát khỏi mọi câu nệ về từ ngữ, nghĩa, cú pháp, ta sẽ đạt đến một điều khác. René Char nói: “Bài thơ sinh ra từ một sự áp đặt chủ quan và một lựa chọn khách quan”. Bài thơ phải ở đúng chỗ của nó.

“Đêm thiêng vừa tỉnh giấc”: que hương thứ nhất
“Nửa chiêm bao lệ nhòa”: que hương thứ hai
“Hỡi ơi! Người đã qua”: que hương thứ ba

Và cứ như vậy, cho đến “Ta lát lên lầu ngà”, ta có mười lăm câu thơ 5 chữ, mười lăm que hương. Người sắp nhập đồng có mười lăm que hương (hoặc mười lăm ngọn nến) thắp lên. Anh ta sẽ cắm chúng theo phương vị và hình dạng nào? Anh ta tự biết. Khi đủ điều kiện (mười lăm que hương), chuyện xảy ra: một điệu múa đặc biệt uốn lượn và lung linh. Lúc này, tâm thức lảo đảo theo điệu múa, tiếng nhạc, trở nên tự do. Thoát vòng câu thúc, đạt tới một bên ngoài nào đó là đặc điểm then chốt trong thơ Đinh Hùng. Mọi thứ uốn lượn và rung lên. Sau đó, con người được “hồi sinh”, đủ sức chịu đựng cuộc đời bên ngoài nghi lễ.

Trong và ngoài nghi lễ, trong và ngoài sự kỳ diệu, đó là điểm khó nhất của thơ. Thơ chứa đựng một nghịch lý lớn: sự giằng xé giữa ésotérique (những điều bí ẩn) và exotérique (nói điều thiêng bằng chất liệu phàm). René Char nói: “Bài thơ luôn luôn cưới một ai đó”.

Trong thơ Việt Nam, ngoài Đinh Hùng, Huy Cận cũng là một nhà thơ đạt đến đỉnh cao về nhịp điệu.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *