Site icon donghochetac

2-Metylpropen: Tổng Quan, Tác Động và Nghiên Cứu

Chuột B6C3F1 được sử dụng trong nghiên cứu về 1-chloro-2-methylpropene, cho thấy đối tượng thử nghiệm chính trong việc đánh giá tác động của hóa chất này.

Chuột B6C3F1 được sử dụng trong nghiên cứu về 1-chloro-2-methylpropene, cho thấy đối tượng thử nghiệm chính trong việc đánh giá tác động của hóa chất này.

2-Metylpropen, còn được biết đến với tên gọi isobutylene, là một hydrocacbon không no quan trọng trong ngành công nghiệp hóa chất. Bài viết này sẽ đi sâu vào các nghiên cứu về tác động của một dẫn xuất clo hóa của nó, 1-chloro-2-methylpropene, thông qua đường uống.

Nghiên cứu trên chuột (Mouse):

Một nghiên cứu đã được thực hiện trên chuột B6C3F1, trong đó các nhóm chuột (50 con đực và 50 con cái) được cho dùng 1-chloro-2-methylpropene (độ tinh khiết 98%, tạp chất chính là 3-chloro-2-methyl-propene) trong dầu ngô bằng phương pháp gavage với liều lượng 0, 100 hoặc 200 mg/kg trọng lượng cơ thể, năm ngày mỗi tuần trong 102 tuần. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống sót của chuột đực và chuột cái được điều trị thấp hơn đáng kể (p < 0,001 và p < 0,001, tương ứng).

Đáng chú ý, tỷ lệ mắc bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy ở dạ dày trước tăng đáng kể ở chuột đực: 2/49 ở nhóm đối chứng, 33/48 ở liều thấp (p < 0,001) và 41/48 ở liều cao (p < 0,001). Tương tự, tỷ lệ này cũng tăng ở chuột cái: 0/48 ở nhóm đối chứng, 37/47 ở liều thấp (p < 0,001) và 43/49 ở liều cao (p < 0,001). U nhú tế bào vảy cũng xuất hiện ở chuột đực: 0/49 ở nhóm đối chứng, 3/48 ở liều thấp (p = 0.054) và 8/44 ở liều cao (p = 0.011); tỷ lệ mắc bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy là 0/48 ở nhóm đối chứng, 42/47 ở liều thấp (p < 0,001) và 41/48 ở liều cao (p < 0,001).

Nghiên cứu trên chuột cống (Rat):

Một nghiên cứu khác được tiến hành trên chuột cống Fischer 344/N, với các nhóm chuột (50 con đực và 50 con cái) được cho dùng 1-chloro-2-methylpropene (độ tinh khiết 96–98%; tạp chất chính là 3-chloro-2-methylpropene, 1,2-dichloro-2-methylpropane, 2,2,4-trimethyl-3-hydroxypentanal và tert-butyl chloride) trong dầu ngô bằng phương pháp gavage với liều lượng 0, 100 hoặc 200 mg/kg trọng lượng cơ thể, năm ngày mỗi tuần trong 103 tuần. Tương tự như nghiên cứu trên chuột, tỷ lệ sống sót của chuột cống đực và cái được điều trị cũng thấp hơn đáng kể (p < 0,001).

Tỷ lệ tăng sản biểu mô của dạ dày trước tăng ở chuột đực được điều trị, xuất hiện ở 0/49 nhóm đối chứng, 24/50 ở liều thấp và 19/50 ở liều cao; và ở chuột cái được điều trị, xuất hiện ở 0/50 nhóm đối chứng, 29/50 ở liều thấp và 24/49 ở liều cao. Tỷ lệ tăng sản biểu mô của thực quản cũng tăng ở động vật được điều trị, xuất hiện ở 0/50 chuột đực đối chứng, 6/50 ở liều thấp và 4/49 ở liều cao và ở 0/49 chuột cái đối chứng, 7/50 ở liều thấp và 4/49 ở liều cao.

Các nghiên cứu này cho thấy rằng việc tiếp xúc với 1-chloro-2-methylpropene có thể gây ra những tác động đáng kể đến sức khỏe, đặc biệt là liên quan đến dạ dày trước và thực quản. Cần có thêm nhiều nghiên cứu để hiểu rõ hơn về cơ chế tác động và các rủi ro tiềm ẩn của 2-metylpropen và các dẫn xuất của nó.

Exit mobile version